Huyền
Chiêu
Mái nhà xưa
Sau
khi học xong trung học, tôi muốn tiếp tục việc học ở Sài Gòn. Nhưng năm đó ba
tôi phải về hưu, đi học xa là không thể. Tôi buồn lắm. Má tôi khuyên: "
Con ở nhà lấy chồng đi. Có mấy chỗ khá
khá ngỏ ý rồi đấy. Đi học xa vất vả, má không yên tâm ". Ba tôi thông cảm
với tôi hơn. Ông giúp tôi thực hiện nguyện vọng bằng hai bức thư. Bức thứ nhất
gửi cho cô Năm Cầu Bông, một người bà con xa mà tôi chưa hề biết mặt vì bà bỏ
xứ đi đã hơn hai mươi năm rồi. Trong thư ba tôi xin cô giúp cho tôi một chỗ ở.
Bức thư thứ hai gửi cho bác TB, một người bạn cũ của ba tôi, nhờ giúp cho tôi
một việc làm trong Công Ty Hóa Chất mà
bác làm Tổng Giám Đốc.
Tôi
đi Sài Gòn với hai bức thư và một tâm trạng lo âu của một người lần đầu một
mình ra khơi.Thật như có phép mầu khi cả hai bức thư đều có tác dụng. Cô Năm
nhân hậu đã nhận tôi là cháu họ xa và
cho tôi ở với bà trong căn nhà nhỏ trong một con hẻm sát cạnh cầu Bông. Bác TB
tốt bụng cũng nhận tôi vào làm việc ở văn phòng thương mãi đặt ở đường Nguyễn
Công Trứ. Công việc của tôi là đánh máy những gì mà Tổng thư ký soạn thảo. Tôi
biết ơn Ba tôi lắm. Những điều may mắn ấy tôi không dễ gì có được nếu tôi không
có một người cha mà ai cũng quí mến.
Sau khi có việc làm,
tôi ghi danh vào trường Đại Học Văn Khoa môn Anh Văn, Hán Văn. Để tiện việc học
hành tôi xin chuyển vào ở trong lưu xá Phước Hải, một lưu xá dành riêng cho nữ
sinh viên nằm trong khuôn viên một ngôi chùa ở đường Trần Quốc Toản.
Mỗi chiều sau giờ làm
việc tôi đón xe bus đến trường học. Tối nào cũng đến 10:30. tôi mới về đến lưu
xá. Trên bàn ăn bao giờ cũng chỉ còn một phần ăn cuối cùng dành cho tôi. Tôi
thấy mệt hơn là đói nhưng cũng phải vội vàng ăn để còn qua phòng học nhận những
tài liệu mà tôi đã nhờ các bạn mua dùm trong buổi sáng. Nếu Má tôi biết tôi khổ
cực thế này chắc bà sẽ giận tôi không nghe lời bà.
Cuối
tuần vào những lúc rảnh rỗi hiếm hoi, tôi thường xuống hậu liêu nhà chùa trò
chuyện với các ni cô và các chú điệu. Tôi rất thích cái màu nâu cũ kỹ, bạc phếch
trên nền vải thô của những người trong nhà chùa. Một hôm tôi đi chợ Bến Thành
mua một xấp vải nâu rồi ngồi vào máy may của lưu xá tự "thiết kế" cho
mình một cái áo vạt hò. Thật vui và thanh thản khi làm được điều mình thích.
Mỗi
cuối tháng, tôi cũng được cùng cô Hà Xíu Chẻ đi Ngân Hàng lĩnh tiền và sau đó
xuống Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa làm công việc phát lương cho công nhân ở khu chế tạo
và nhân viên ở phòng thí nghiệm. Những ngày ấy tôi có được những giây phút dễ
chịu khi từ bờ sông Đồng Nai tôi nghe rõ luồng gió mát rượi, phơi phới thổi về
sau khi bay qua những cánh đồng, những mặt nước mênh mông. Những lúc ấy tôi
cũng rất nhớ đến những ngọn gió hiu hắt ở Ninh Hòa quê tôi. Những ngọn gió ấy
thường buồn bã và tù túng vì phải chịu vây hãm bởi một vùng đất mà bốn bề đều
bị bao vây bởi quá nhiều ngọn núi.
Tết
Mậu thân năm ấy tôi về thăm nhà và không quên được cảm giác hãi hùng khi phải đón giao thừa trong tiếng pháo
lẩn với tiếng súng . Đó là lần đâu tiên tôi tận mắt nhìn thấy chiến tranh. nhìn thấy những xác chết của những người lính miền Bắc tuổi còn rât
trẻ, nằm chết bên bờ mương, trong chuồng heo, trên mái nhà . Thuở ấy tôi chưa
biết Cộng Sản là gì, chỉ thấy tội nghiệp cho những xác chết bên hông vẫn còn
mang một vắt cơm khô. Họ cũng có cha, có mẹ và họ sẽ không có một nấm mồ trong
một nghĩa trang nơi mà mẹ họ, chị họ có
thể đến thắp một nén hương vào đêm giao thừa. Tôi tự hỏi tại sao chiến tranh
lại chọn đất nước tôi. Một đất nước vốn đã kiệt sức vì nghèo đói và lạc hậu!!!
Lúc này mẹ tôi cũng đang khốn khó với một đàn con nhỏ dại mà tôi là con đầu.
Một nỗi buồn nặng trĩu xâm chiếm tâm hồn tôi làm tàn phai đi những mộng ước
riêng tư. Tôi viết một bức thư xin nghỉ việc gửi cho bác TB, sau đó xin dạy học
ở Ninh Hòa. Tôi nghĩ làm việc ở quê nhà tôi có thể tiết kiệm giúp đỡ mẹ tôi .
Khác
với cuộc sống sôi động mà thời gian được tính từng phút ở Sài Gòn ngày tháng ở
Ninh Hòa trôi qua thật hiền lành và đơn điệu. Cũng có lúc tôi thấy nhớ những
ngày tháng lạc lõng nhưng vô cùng tự do ở Sài Gòn. Tôi cũng nhớ giảng đường và
ngôi chùa Phước Hải cùng dòng sông Đồng Nai bát ngát. Những lúc ấy tôi thường
mặc vào chiếc áo vải nâu và mở Đường Thi ra tập chép như những ngày còn cặm cụi
học hành trong phòng học của lưu xá. Tôi rất yêu thích thứ chữ tượng hình này bởi
khi viết tôi có cảm giác như mình đang vẽ một bức tranh.
Tàn
đi cơn mộng học hành, tôi cố gắng tìm vui trong công việc. Những đứa trẻ mà tôi
gặp gỡ hàng ngày ngây thơ, chất phác như những củ khoai. Để giúp cho giờ học
bớt buồn tẻ, nhàm chán tôi thường dạy chúng hát những bài dân ca như Cây Trúc
Xinh, Lý Chim Quyên, Hát Hội Trăng Rằm, Xe Chỉ Luồn Kim...
Cuối
giờ học vào những ngày mưa dầm gió bấc, trong khi chờ tiếng kẻng tôi thường kể
chuyện cổ tích của Andersen cho học trò nghe. Tôi thích nhất câu chuyện Nàng
tiên cá. "Nàng tiên cá bé nhỏ ngây thơ, trong sáng ấy đã thầm yêu một
hoàng tử và nàng ao ước có ..... một đôi chân bình thường như của loài
người". Tôi thường kết luận với học trò rằng trong cuộc đời này có biết
bao là mơ ước mà tôi chưa thấy mơ ước nào tội nghiệp đến như vậy. Tôi nghĩ câu
chuyện này có thể làm cho những học trò nghèo , quê mùa của tôi cảm thấy hạnh
phúc vì dầu gì chúng cũng có .... một đôi chân.
Năm
1975, Chính Quyền mới cho tôi nghỉ việc vì ba tôi là “ngụy quyền”. Bây giờ tôi
bắt đầu hiểu về Cộng Sản. Nhưng tôi cũng tự an ủi, nếu vào lớp mà không được
quyền kể chuyện cổ tích Andersen cho học trò nghe thì buồn lắm.
HUYỀN CHIÊUTỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG
Cố nhân tây từ Hoàng hạc lâu
Yên ba tam nguyệt hạ Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
Lý Bạch
TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN ĐI QUẢNG LĂNG
Tạ từ Hoàng Hạc người đi
Tháng ba hoa khói xuôi về Giang Châu
Cánh buồm lẻ bóng khuất mau
Dòng Trường Giang chảy về đâu hỡi người
Người dịch:
Huyền Chiêu
No comments:
Post a Comment