Nguyễn Đức Tùng
Tác phẩm Trịnh Y Thư
Trịnh Y
Thư quan tâm đến sự chính xác, tiết kiệm chữ, nhưng anh cũng để cho khả năng nhạy
cảm với mặt trái của xã hội, sự tra tấn, nỗi đau khổ làm bùng vỡ ngôn ngữ. Anh
ý thức về sự hữu hạn của kiếp người, thứ sự thật tương đối, về cái chết, mặt tối
đen của số phận, các ảo tưởng. Trịnh Y Thư thuộc những nhà thơ hiện đại, tiến rất
xa tới gần các biên giới, trở thành một người lạ, đôi khi.
Gió tây bắc hốt
hoảng bữa cơm chiều đạm bạc
như một kẻ dại
khờ tìm ánh lửa khoan dung
làn tóc rối che giấu
niềm cảm thông vội vã
rồi vụng trộm khép lại
ước vọng thuở đầu đời
(Phế
tích của ảo ảnh [4])
Có những
bài thơ của anh như lời độc thoại, như một người đứng trên sân khấu nhưng quay
lưng lại với khán giả, tự nói với mình, nhắc đến những kỷ niệm và những ấn tượng
mà chỉ mình hiểu được. Khi đó bài thơ của anh đóng kín, sự cảm thông giữa người
đọc và tác giả bị tối thiểu hóa. Tuy nhiên, giữa những độc thoại như thế, với cảm
giác cô quạnh, giận dữ làm ta ngạc nhiên:
That
stupid duplicitous body
I just
want to throw away
Cái
thân thể trắc nết ngu xuẩn này
Tôi muốn
vứt cho xong1
Là sự
giải thích dịu dàng của anh:
But
listen. I also hear the pipes clanking
Nhưng
nghe này. Tôi còn nghe tiếng ống sắt rổn rảng1
(Song
of The Night)
Như
mở một cánh cửa, bạn tưởng đã hoàn toàn đóng kín.
Sự chuyển
hóa tâm linh trong thơ Trịnh Y Thư là sự thay đổi của những tình huống bên
ngoài, nội tâm hóa chúng. Cảnh vật trong thơ anh không còn là sông núi, phố phường,
hàng xóm nhưng chính là chiều sâu của tâm thức, là tâm cảnh. Giọng điệu trong
thơ là một thứ giao hòa giữa thế giới riêng tư, bí ẩn và thế giới công cộng, bên
ngoài, xã hội.
Họ là ai tôi tự
hỏi
những bản văn tự không ấn dấu
xung quanh một bến nước
có tiếng hát phù trầm
quay quắt một đêm mưa
hàng cau đánh sập sân từ đường
vỡ vụn những viên gạch
khép nép nghìn thu.
(Phế
tích của ảo ảnh [3])
Đôi khi
không phải anh trở lại căn nhà cũ, mà chính tình yêu cũ trở về với anh, trong
giấc mộng, bên kia tường, trên chiếc bàn đầu giường, dưới ngọn đèn. Những hình ảnh
phát ra tiếng nói của chúng, mạnh mẽ đến nỗi những bày tỏ của anh chính là tự
biểu hiện của sự vật, những dàn xếp hóa ra là ngẫu hứng, hiện thực chẳng qua là
phản chiếu của chính nó.
Nơi tôi
đứng chiều nay
những mái nhà nâu
những chiếc cầu lung linh bóng nước
sẽ tan biến cả và còn lại
chỉ là phế tích của ảo ảnh – rớt rơi
(Phế
tích của ảo ảnh [1])
Trịnh Y
Thư nói về ảnh hưởng của quá khứ lên hiện thực hôm nay. Anh hoài niệm nhưng
không dừng lại ở đó, như một người vừa ra khỏi căn nhà cũ, ngước nhìn bầu trời,
lắng nghe tiếng động của cuộc sống, ghi nhớ với một cảm quan sắc bén bất ngờ của
người từ xa tới. Mọi vật trở nên sắc sảo, đường nét đậm hơn, mùi vị trở nên mạnh
mẽ hơn đối với một người như thế. Đó là sự chú ý vượt ra ngoài ngôn ngữ. Trịnh
Y Thư giống nhiều nhà thơ thuộc thế hệ của anh, một nửa Việt Nam, một nửa đời sống
xứ người, đôi khi họ tự gọi mình là kẻ lưu vong.
Thốt nhiên tôi
quay về hướng mặt trời
một ngày thoát
thân – xác quạ lót đường đi
những đám mây
tích vô tích sự
(Phế
tích của ảo ảnh [2])
Anh tái
hiện năng lượng của các chi tiết đời sống, sự cô đơn, lòng thương tiếc, hối hận,
những sai lầm. Thơ tự do của anh có nhạc tính. Có lẽ vì anh là người chơi nhạc.
Và mặc dù không hay xuất hiện trước công chúng, Trịnh Y Thư đã dùng một ngôn ngữ
có yếu tố giao tiếp, đối thoại.
Cơn gió
mùa hè thổi qua thành phố
Vắng
bóng những đôi tình nhân
(Cơn gió mùa hè)
hoặc:
Tôi là
người về từ đại dương trầm tích
(Phế
tích của ảo ảnh [10])
Tính phức
tạp và đa giá trị của thơ đương đại muốn người đọc không ngừng thiết lập và thiết
lập trở lại mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại và quá khứ.
Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, lịch sử bạo động, những dối trá và giết người,
thơ ca có thể làm được điều gì? Không nhiều lắm.
Tập thơ
Phế tích của ảo ảnh gồm nhiều bài Trịnh
Y Thư viết trong những khoảng thời gian khác nhau, nhan đề là tên của phần đầu
tiên của tập thơ gồm ba phần: Phế tích của
ảo ảnh; Trong bóng tối ta chẳng tìm
thấy nhau; Con nước vô danh2.
Có những bài thơ dài, những bài lục bát, thể haiku, thơ có vần và thơ tự do,
thơ năm chữ và thơ Tân Hình thức, như vậy trong một cuốn sách khoảng một trăm
năm mươi trang, người đọc có thể nhìn thấy gần như tất cả những thể thơ Việt phổ
biến trong mấy chục năm nay.
Bao nhiêu
năm ở nơi đây
tôi yêu
bóng tối phủ đầy quanh tôi
(Con nước vô danh [8])
Trịnh
Y Thư cũng có những câu thơ cũ, rõ ràng chịu ảnh hưởng của người khác:
hồn ai
rụng giữa giang hà
tình
xanh quyến niệm trên tà áo mơ
(Con nước vô danh
[26])
Tuy
nhiên bài thơ của anh thường có khả năng vượt qua sự lẫn lộn giữa một bên là
các yếu tố lịch sử, bằng chứng, và một bên là ký ức, trí tưởng tượng. Công
chúng đọc thơ ngày càng nhỏ lại nhưng không chịu biến mất. Sự sống sót của họ,
công chúng đọc thơ, là sự sống sót của tác giả, của tâm hồn nhân loại. Chỉ
riêng điều đó thôi cũng đủ an ủi chúng ta.
Tôi trở về đây
vòng quay của đất trời tê tái
thăm hỏi những
con người bị lãng quên
nằm chen chúc
dưới đám ruộng
chiêm trũng
lúc giao mùa phất phơ.
(Phế
tích của ảo ảnh [3])
Herbert
Marcuse từng viết rằng, sau thảm kịch Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là có tội.
Thảm kịch Auschwitz của dân tộc Việt Nam đã đến từ lâu, không phải ai cũng đều
nhận ra.
Tôi vừa
chia tay một linh hồn
tôi vừa
gieo vào một đôi mắt
tôi vừa
ôm ấp một mái đầu
tôi vừa
giẫm nát một con sâu
tôi vừa
dụi mắt giấc mơ nào
(Những phiến lá từ
tâm)
Có những
giây phút chuyển hóa siêu việt, khi anh đi tìm sự mới mẻ, tìm một tương lai
khác và do đó một hoài niệm kiểu khác. Sự giao cảm, đồng cảm của tác giả với
người đọc qua những thời gian khó khăn, đã đồng hóa tác giả với số phận của những
nhân vật. Tâm lý học của một cộng đồng hay một dân tộc có lẽ chi phối tâm lý một
cá nhân ở mức sâu xa đến nỗi trong một số trường hợp chúng chỉ là một.
Tôi nhìn thấy
gì trong đôi mắt lá răm
ở nơi có ánh
chiều tháng Chạp
và những quả ổi
mơn mởn xanh
rầu rầu liếp mía
con giẻ cùi phụ họa
lời ru mái nhà nâu hiu hắt à ơi.
(Phế
tích của ảo ảnh [4])
Liệu
các nhà thơ có trách nhiệm gì đối với xã hội hay không? Thật khó trả lời. Tôi
nghĩ nhà thơ chỉ có trách nhiệm trong chừng mực mà đề tài của một bài thơ cụ thể
hướng về các vấn đề xã hội, chính trị hay luân lý. Ngoài ra, anh ta là một kẻ
hát rong, một người đi lang thang trên đường, một người viết không thuộc vào một
hệ tư tưởng nào, không phục vụ cho một thể chế nào. Việc nhà thơ bầu cho một
chính khách hay chính thể trong đời thực không can hệ gì đến tiếng nói của nhà
thơ ấy trong tác phẩm. Chính nhờ thế mà văn chương trở nên nhẹ nhõm, và sự an ủi
là cái nhìn trong sáng đối với sự thật.
Bóng ma
quá khứ không làm cô sợ hãi
miểng
bom cắm trên hương thờ trở thành linh thiêng
(Phế
tích của ảo ảnh [4])
Nơi Trịnh
Y Thư, thơ ca đến gần sự kết hợp giữa Tây phương và Đông phương. Anh ít nói về
mình, thường không tự bày tỏ, dưới một vẻ ngoài xông xáo là một tâm hồn nhạy cảm,
có lúc yếu đuối, có khi mặc cảm, bên dưới sự kiềm chế, một hình thức gần như kỷ
luật tinh thần là sự sôi nổi phóng khoáng, mặc dù không hoàn toàn hoang dại.
Bên cạnh một cố gắng kết nối với dĩ vãng và truyền thống là tâm thức chia lìa,
tự tách rời của một người ngày càng đi xa nguồn cội, không hẳn là hạnh phúc
nhưng tự bằng lòng với chọn lựa của mình. Tham vọng của thơ trữ tình là chinh
phục tâm hồn của người khác và, do đó, lịch sử kiến tạo nên họ. Trịnh Y Thư
không viết về chính trị nhưng sự bày tỏ của anh đều có thể đưa đến những diễn dịch,
xa hay gần. Hoài niệm chỉ là hình thức khổ
đau mới, câu nói của Charles Baudelaire, mà Trịnh Y Thư ghi trong phần dẫn
đề, nói đúng tâm trạng của người đọc và người viết hôm nay, xa xứ hay lưu vong
trên chính đất nước mình.
Trăm lần như một tôi
không có chọn lựa nào
(Phế
tích của ảo ảnh [2])
Trịnh Y
Thư viết ít, các bài thơ không dài lắm, nhưng anh không phải là người quá gọt
giũa câu văn. Sự phát triển hay sự trương nở, tôi thiết nghĩ, trong một số trường
hợp mang lại nhiều ích lợi hơn cho văn chương. Ở những người viết có tài năng, sự
phóng túng, sự buông lỏng mang lại niềm vui thú khó sánh được.
Người
con lịch sử khuôn mặt ngươi ở đâu
sau tấm
biển quảng cáo nịt vú đàn bà
hay bên
kia rừng trảng thâm u
bên dưới
những nấm mồ oan khốc
(Phế
tích của ảo ảnh [2])
Đó là một
bài thơ xuất sắc: nó có thể thở được. Nó chứa đựng trong đó những số phận, những
bi kịch, quang cảnh của một đất nước, của một tâm trạng. Hơn thế nữa nó mang lại
nhịp điệu, như một làn sóng nước liên tục có thể đi qua những nhát cắt, trong
quá khứ, đổ máu, hay trong hiện tại, hệ ý thức. Tôi tin là người nào có dịp đọc
thơ Trịnh Y Thư sẽ yêu mến anh hơn, như một nhà thơ, như một người cùng chia sẻ
các số phận; và đằng sau vẻ ngoài lặng lẽ và tiết chế, là một tâm hồn nồng nhiệt
và sự phán xét trong sáng.
Nguyễn
Đức Tùng
(Viết sau mấy ngày nằm bệnh, 2/2018)
Chú
thích:
1 Bắc
Phong dịch từ nguyên tác tiếng Anh.
2 Phế
tích của ảo ảnh, NXB Văn Học, 2017, 149 trang có đánh số, tranh bìa: Nguyễn
Đình Thuần; kí họa chân dung và thiết kế bìa: Ái Lan; phụ bản: Thái Tuấn, Đinh
Cường, Nguyên Khai, Hoàng Xuân Sơn.
No comments:
Post a Comment