Ngô
Thế Vinh
Water,
water, every where,
Nor any
drop to drink.
Samuel Taylor Coleridge [1772-1834]
Thế kỷ 21 của tỵ nạn
môi sinh, đã có 2 triệu người
phải rời bỏ quê hương
ĐBSCL ra đi tìm kế sinh nhai
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Hình 1: Hình ảnh một dòng sông đang chết dần; cũng để hiểu
tại sao đã có
2 triệu người phải rời bỏ quê hương ĐBSCL đi tìm kế sinh
nhai;
từ phải: TS Lê Anh Tuấn, Th.S Nguyễn Hữu Thiện. [photo by
Ngô Thế Vinh]
XỨ
SỞ CÂY THỐT NỐT VÀ NGƯỜI KHMER HIỀN HOÀ
Tới
An Giang, tới hai quận Tịnh Biên và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt
nốt nổi bật trên những cánh đồng lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa
học Borassus flabellifer, có nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả
trăm năm dài hơn tuổi thọ một đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây
đực không trái, cây cái cho tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen,
nhỏ hơn trái dừa bên trong có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt nốt
cho nước ngọt có vị thơm, có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu Quảng
Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường phèn thì
An Giang, vùng Tịnh Biên Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu xanh nấu
với đường thốt nốt ngọt dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi thành phần
cây thốt nốt đều có công dụng: thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái. Trong nền văn
hóa cổ Khmer, các Chùa chiền còn lưu giữ được những văn bản viết trên lá cây thốt
nốt. Cây thốt nốt cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [Hình 2]
Hình 2: Hàng cây thốt nốt đứng soi bóng bên hồ nơi khu đền
đài Angkor;
cây thốt nốt được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Khắp
xứ Chùa Tháp xuống tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, đi đâu cũng chỉ gặp những người
dân Khmer hiền hòa, và rồi không thể nào hiểu được những gì đã xảy ra giữa họ
và những người Việt trong quá khứ. Chỉ có thể giải thích họ là một đám đông nạn
nhân của những khích động thù hận mà động cơ là những mưu đồ chánh trị đen tối.
Trong
y khoa, khi khảo sát não trạng vô thức của đám đông, qua nghiên cứu hành vi/
behavior của loài cá, khoa học gia Đức đã làm một thử nghiệm: thả một con cá bị
huỷ não bộ vào một hồ cá, không có gì ngạc nhiên là con cá ấy mất định hướng
bơi tán loạn, nhưng điều kỳ lạ là đàn cá lành mạnh thì lại ngoan ngoãn bơi theo
con cá mất não ấy. Phải chăng "thử nghiệm hành vi" của nhà khoa học Đức,
đã phần nào giải thích hiện tượng cả một dân tộc Đức văn minh đã có một thời kỳ
nhất loạt tuân theo một lãnh tụ như Hitler xô đẩy cả thế giới vào lò lửa của cuộc
Thế chiến thứ Hai.
phải,
bà Ngoại ngồi chặt đống trái cây thốt nốt; dưới phải, con gái Ngoại
thì
đang gỡ những múi thốt
nốt trắng mềm để
mời khách, đây là quán Thốt Nốt Võng
cho
khách đường xa ghé uống ly nước thốt nốt mát và tạm ngả lưng;
từ
phải, TS Lê Anh Tuấn, TS Dương Văn Ni, TS Lê Phát Quới, Th.S Nguyễn Hữu Thiện,
KS
Phạm Phan Long; trên mặt bàn là hộp đường thỏi thốt nốt.
[photo
by Ngô Thế Vinh & Phạm Phan Long]
Hình
4: trái, được ăn những chiếc bắp nóng trên đường đi, phải,
vựa
dứa thơm ngon nổi tiếng quận Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng,
từ
trái: TS Dương Văn Ni, Ngô Thế Vinh, TS Lê Phát Quới.
[photo
by Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Hưng]
Hình 5: tren, những giề lục bình phủ kín kinh rạch do nước tù
đọng;
duoi, cảnh khói đồng do nông dân đốt rạ và dùng tro than như
phân bón thiên nhiên.
Hình 6: giữa, cùng bác nông dân với bài học đập lúa đầu tiên
trên ĐBSCL,
kết quả người viết bị đánh rớt / disqualified ngay, vì đập
không hết
hạt và lúa thì vương vãi ra tứ tung, học làm nông dân khổ và
khó lắm.
[photo by Nguyễn Văn Hưng]
Hình
7: trái, từ ruộng hành xã Vĩnh Hải huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
những
thố hành tím được chất thành ngọn lên xe tải để phân phối tới các chợ;
phải:
TS Lê Anh Tuấn đứng bên túi trữ nước ngọt lấy từ giếng bơm, anh Lê Anh Tuấn
cũng
cho biết: 100% nước tưới ruộng hành được lấy từ các giếng bơm,
[photo
by Ngô Thế Vinh]
CÓ
MỘT NỀN VĂN HOÁ NƯỚC LỢ
Trên
đường dọc theo Sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai,
tỉnh Bạc Liêu. Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua
con kênh lớn Gành Hào [được xây
từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của Nhật].
Bấy
lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản
đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt.
Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt.
Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ luỵ cho hệ sinh thái
ĐBSCL như hiện nay.
Đoàn đứng trên cầu phía hướng ra Biển
Đông, nơi có cống đập ngăn mặn. Ngoài mặn trong ngọt. Anh Dương Văn Ni sinh ra
và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi nói về nhịp đập của hệ sinh thái
ĐBSCL, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ tay của chính mình; với một giọng
thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng:
"ĐBSCL
chỉ nói riêng phía Biển Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt.
Hỏi người nông dân thì họ biết rất rõ. Thuỷ triều từ Biển Đông là bán nhật triều,
sáng và chiều hai lần trong ngày; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng,
mực nước lên xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết chừng
nào thì "nước rong" vào ngày rằm, khi nào "nước kém" vào cuối
tháng âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa "nước nổi" và mùa "nước
hạn".
Từ
mấy trăm năm, trải qua bao thế hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với
nhịp đập thiên nhiên ấy của những dòng sông: trong ngày, trong tháng, trong năm
và đã hình thành một nền "văn minh sông nước." Họ đã quen chung sống
với cả ba tình huống: nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Lãnh đạo bộ Nông nghiệp
đa số mang theo họ một nền văn hoá từ châu thổ sông Hồng, biết rất ít về hệ
sinh thái ĐBSL vốn rất đặc thù. Với đầu óc duy lý giản đơn, với những con số thống
kê, nhưng họ có biết đâu rằng chuỗi những con số đó chính là những tín hiệu đã
nằm ngay trong nền "văn hoá sông nước" mà người nông dân từ đời này
sang đời nọ vẫn đọc được. Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của
thiên nhiên để chung sống. Văn hoá sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác
Sông-Biển-Châu thổ-Con người cùng hoà nhập nhau theo từng nhịp đập.
Một
ví dụ, chỉ riêng chuyện di chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết
tính trước khi nào thì cho ghe xuôi theo con "nước ròng", khi nào thì
ghe ngược theo con "nước lớn", và cũng để thấy cấu trúc của lòng ghe
bấy lâu là làm sao dùng sức đẩy tối ưu của dòng chảy.
Và
rồi trong tháng họ biết lúc nào thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào
thì thả con giống cá tôm... mà không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu
tát nước hay phải dùng tới máy bơm.
Chính
nhịp đập của "mẹ thiên nhiên / natural pulse" là bạn đồng hành thân
thiết bấy lâu của họ. Và nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một cách thô bạo.
Cũng từ bao trăm năm, nông dân ĐBSCL biết rất rõ là sông rạch nối
liền với biển, có thuỷ triều lên nên mới có được con nước lớn, và thuỷ triều xuống
mới có con nước ròng, và cũng nhờ đó mà sông rạch được làm sạch, có cá tôm và
đã hình thành cả một nền văn hóa sông nước.
Chúng tôi cùng hiểu rằng: với cống đập kia, con sông bị cắt làm
hai: chỉ còn một bên ngọt, một bên mặn, mất hẳn một vùng nước lợ / blackish.
Bên trong không còn nước lớn, nước ròng mà sông biến thành hồ tù đọng, tích luỹ
đủ mọi loại ô nhiễm, và không còn cá tôm. Bên ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng
bị nghèo đi và nông ngư dân cho biết, từ ngày có cống đập không còn đâu nguồn
tôm cá phong phú của cả một vùng nước lợ. Đó là chưa nói tới tình trạng gián đoạn
giao thông trên sông.
Rồi
anh Ni đưa ra một ví dụ rất tượng hình: "Cũng giống như khai quật được một
kho tàng cổ sử, người không chuyên môn thì chỉ thấy được đó là những mảnh đá mảnh
sành, cùng lắm là thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn ngoèo vô nghĩa trên đó, nhưng
với con mắt của nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết và tín hiệu của cả một nền
văn minh."
Và
tôi cũng hiểu rằng, bấy lâu với các chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào,
chưa từng chung sống và chết với nền văn minh sông nước ấy, họ đã có những
chánh sách can thiệp thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên để phải trả giá rất đắt
và nạn nhân không ai khác hơn là chính ngót 20 triệu cư dân phải ngày đêm sống
với những bất cập ấy như hiện nay.
Hình 8: trái, Cầu Hộ Phòng II là cây
cầu mới trên khúc đường vòng/ detour,
(do
quỹ ODA / Official Development Assistance của Nhật xây 2011, còn Hộ Phòng I
là
cây cầu cũ thì nằm trên đường thẳng của Quốc lộ). Đứng trên hướng ra Biển Đông
TS
Dương Văn Ni đang giảng về "có một nền văn hoá nước lợ"; từ trái: TS
Dương văn Ni,
KS
Phạm Phan Long, TS Lê Anh Tuấn, TS Lê Phát Quới, giữa: cống đập chặn mặn không xa biển trên con kênh Gành Hào, với
bên ngọt bên mặn và một mai không còn đâu nét văn hoá của một vùng nước lợ / lackish;
phải: cống đập chặn mặn chặt đứt hệ sinh thái biển và sông và cũng làm nghẽn mạch
vận chuyển đường sông, kể cả với những chiếc ghe nhỏ đuôi tôm. [photo by Ngô Thế
Vinh]
CÔNG
TRÌNH CỐNG ĐẬP BA LAI: MỘT HỐI TIẾC
Hai
Mươi Năm qua 1997-2017, lãnh đạo Bộ Nông Nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 bộ trưởng:
1/
Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ 7 năm, 1997-2004
2/
Cao Đức Phát, nhiệm kỳ 12 năm, 2004-2016
3/
Nguyễn Xuân Cường, nhiệm kỳ 2016 đương nhiệm
Họ
đến từ miền Bắc đã và đang có những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh
thái ĐBSCL, một vùng thổ nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.
Chỉ thấy đơn giản nơi ĐBSCL có triều cường triều kiệt, coi nước
mặn là kẻ thù nên đã có một chiến lược ồ ạt xây những đại công trình mà người
ta gọi là Cống Đập Ngăn Mặn, mà Cống đập Ba Lai là một điển hình.
Được khởi công ngày 27.02.2000, dự án công trình cống đập Ba Lai
chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh
phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Con đập dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ
84 m được vận hành bằng một hệ thống van tự động hai chiều. Quy hoạch trên lý
thuyết, thì cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho
115,000 hecta đất trong đó có 88,500 hecta là đất canh tác, cấp nước ngọt sinh
hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm,
Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo
môi trường sinh thái vùng dự án. [sic]
Hai năm sau, từ ngày 30.04.2002 cống đập Ba Lai được đưa vào hoạt
động, được vinh danh là một công trình thuỷ lợi lớn nhất của ĐBSCL. Và từ đây,
cửa sông Ba Lai, một trong 9 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại.
Hình 9: từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai nhánh
thứ 8
bị chính con người đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp từ
cả trăm năm nay,
và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất
Long.
[photo by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị]
Tính
cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công
trình Cống đập Ba Lai ấy ra sao? Chỉ có những lời ta thán.
Hàng
trăm cống ngăn mặn không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh
rạch không có cống ngăn mặn đã tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập đã xây.
Hình 10: Bến Tre nước ngọt khan hiếm, phải dùng cả xe máy
kéo để chở nước,
có nơi dân phải mua 100,000 đồng / mét khối nước [photo by Bình Đại, Zing VN 20.02.2016]. Bệnh viện
lớn nhất tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt. mỗi ngày được xe tải cung cấp
10 mét khối nước ngọt, chỉ đủ cho các khoa phòng chia
nhau từng lít nước.
[photo by Mậu Trường, TTO 14.03.2016]
Sông Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến sông Ba Lai thành một hồ nước ngọt
thì cư dân Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào
mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt, đưa tới tình cảnh bệnh viện lớn
nhất Bến Tre mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối nước ngọt chỉ đủ cho các
khoa phòng chia nhau từng lít nước, còn người dân thì sống trong tình trạng thiếu
nước ngọt kinh niên, phải mua nước ngọt có khi phải trả tới 100,000 đồng VN/
mét khối. [Tuổi Trẻ online 22.02.2016]
Giải
thích của nhà nước về "hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai
như hiện nay là: do thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo,
trong đó có hai hạng mục quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền*
trên hai con sông Giao Hoà và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại
đổ vào "hồ nước ngọt Ba Lai".
*Âu thuyền / canal lock: là một từ tương đối mới, chỉ một
công trình chắn ngang sông hoặc kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc giảm mực nước,
giúp cho thuyền hay tàu đi qua nơi có mực nước chênh lệch nhiều.
Theo
phóng viên TTXVN Phan Văn Trí, trích dẫn: "Ông
Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết để thi công hai hạng mục đập và âu
thuyền và một số hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng 200 triệu USD. Vì vậy, tỉnh
đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tranh thủ nguồn
vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho biết tổ chức JICA (Nhật Bản)
đã đến Bến Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và âu thuyền. Tuy nhiên, việc khởi
công có thể còn phải chờ đến… năm 2020. Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe máy
cày hay xe bò kéo chở nước đem đổi cho người dân, với giá từ 70,000 đồng đến
100.000 đồng/m3, chắc chắn vẫn còn diễn ra trong những mùa khô cho tới 2020. Điều
đáng nói là nước đó được lấy từ những chiếc giếng đào trên giồng cát, chưa qua
xử lý…" [2]
Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng nay chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất Nữ Cửu,
như hình ảnh một ĐBSCL bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu:
Ba Lai
là cái cửa mình
Trung
ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Một câu hỏi được đặt ra: với những
tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai - Bộ Nông nghiệp & Phát
triển Nông thôn, hay Bộ Tài Nguyên Môi trường hay chánh phủ trung ương sẽ nhận
trách nhiệm với phong cách "đem con bỏ chợ" như hiện nay, phải chờ
cho tới 2020 cho đến khi ODA của Nhật chịu rót vốn vào?
Từ bài học thất bại của đại công trình cống đập Ba Lai, nhiều
nhà khoa học và giới hoạt động môi sinh như một "think tank" đã không
ngừng lên tiếng cảnh giác rằng: nếu không có một đánh giá môi sinh chiến lược
cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình hạn mặn, rồi lập ngay
quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa
sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả sẽ khôn lường.
Khảo sát của nhóm IUCN / International Union for Conservation of
Nature Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên tại VN đưa ra nhận định là do hệ
thống cống đập khiến hai bên bờ sông Ba Lai đang khép lại dần.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hận,
ĐH Cần Thơ đã dùng một cụm từ rất gợi hình để chỉ hệ thống cống đập Ba Lai khi
ông gọi đó là "dòng sông bị cưỡng bức." Sông nay biến thành hồ chứa,
ô nhiễm thì tích luỹ nước đổi màu do rong tảo sinh sôi phía trong cống đập.
Th.S Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về nước ngập/ Wetlands cho rằng
hàng năm vào mùa mưa do lượng nước mùa lũ đổ về, toàn thể phù sa trong lượng nước
đó sẽ lắng xuống đáy sông Ba Lai - nay trở thành hồ và với thời gian sông Ba
Lai sẽ chết hẳn do bị bồi lấp. [1]
Khi đưa ra cái nhìn toàn cảnh hiện trạng và tương lai ĐBSCL, các
anh trong đoàn đưa ra một cái nhìn tổng quan không mấy lạc quan:
Đất bị mất do sạt lở bờ sông bờ biển, trong những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với nước biển dâng, và đất đai còn
lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ, từ nước thải sinh hoạt, công
nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng lớn phân bón, thuốc trừ sâu
từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.
Theo một nghiên cứu về lịch sử
đất lún do nhà khoa học
Minderhoud và một nhóm chuyên gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental Research
Letters, độ lún và vận tốc lún tại châu thổ ĐBSCL
đã xuống sâu 25 cm và thậm chí đến 50 cm theo biểu đồ KS Phạm Phan Long trích dẫn
chú thích và cung cấp sau đây. [Hình 10]
Trong những thập niên tới, biển dâng được dự
đoán với vận tốc 0.5 cm/năm, như vậy mặt đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt biển có thể
đến 1 m trong vòng 100 năm nữa. Trước tác động kép do sinh hoạt con người và do
biến đổi khí hậu, ĐBSCL sẽ rơi vào tình huống xấu nhất toàn cầu. Một đối sách
có tên “ASR, aquifer storage and
reuse” đang được Viet
Ecology Foundation đề bạt thảo luận là lọc
và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa ngăn mặn tập kích vào thềm lục địa, vừa
có nước ngọt sinh hoạt canh tác và tránh cho mặt đất tiếp tục lún xuống.
Hình 11: Biểu đồ độ lún và vận tốc đất lún
trong 25 năm tại Đồng Bằng
Sông Cửu Long. [nguồn: Environ.Res.Lett. 12 (2017) với ghi chú của
KS Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation]. Hiện nay, rất nhiều giếng
tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm mặn nhiễm phèn, nước giếng không còn
dùng được, và nay người nông dân phải khoan sâu 400-500m để tìm được nguồn nước
ngọt, mặt bằng ĐBSCL đang bị sụt lún nhanh chóng vì các tầng nước ngầm đang bị
tận cùng khai thác.
Đã thế nhiều sông ngòi, bị kế hoạch cống đập đã biến sông rạch
thành hồ tù đọng, tích lũy ô nhiễm. Nước sông ngòi không còn dùng được phải
chuyển sang xài toàn nước ngầm nên tầng nước ngầm cũng cạn kiệt nhanh và đất
lún.
Còn có hiện tượng "tỵ nạn môi sinh/ ecological
refugees" của người dân ĐBSCL rời bỏ quê hương đi tới vùng đất khác, tha
phương cầu thực. Con số gần 2 triệu người đã đi khỏi vùng đất này trong hai thập
niên qua thì phải có những lý do như môi trường sống bị suy thoái, nguồn tài
nguyên ngày càng cạn kiệt.
Thủy điện thượng nguồn từ Vân Nam Trung Quốc rồi Lào làm mất
ngót 90% nguồn phù sa, không có gì thay thế; biến đổi khí hậu với nước biển
dâng có thể phần nào thích ứng nhưng còn vấn đề phát triển tự huỷ / destructive
development do tự mình gây ra đang là một nan đề lớn do chính sách "duy lý
và thiếu tầm nhìn chiến lược" đến từ trung ương đã gây nhiều tổn thương
cho ĐBSCL, gây trở ngại cho phát triển.
TỪ CỐNG ĐẬP BA LAI TỚI SÔNG CÁI LỚN - SÔNG CÁI BÉ
Bài học thất bại của công trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy
mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát, một
người sinh quán Nam Định từ châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của
giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công
trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây
dựng thêm các hệ thống cống đập Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên
Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới
3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL
không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Rõ ràng có những khoảng chống của Dự án Cống đập SCL-SCB và các
câu hỏỉ:
1/ Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi
trường [ĐTM/ EIA] về Dự án Cống đập SCL-SCB là do Viện Kỹ Thuật Biển
thuộc Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện, nhưng không thấy công
bố ở đâu hết, với sự không minh bạch / transparency như vậy thì làm sao có
được sự góp ý của giới chuyên gia.
2/ Dự án SCL-SCB bao giờ khởi công và tình hình tới đâu chỉ
diễn ra sau những cánh cửa Bộ NN & CTNT ngoài ra không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3/ Và cũng là điều vô cùng ngạc nhiên là với gần 2 triệu
người di cư ra khỏi ĐBSCL trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc
điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ.
sẽ tác động trên 1/4 diện tích toàn ĐBSCL
và ảnh hưởng tới đời sống
hơn một triệu cư dân trong vùng. (6) [nguồn:
Ánh Sáng và Cuộc Sống]
Rõ ràng Dự án cống đập Sông SCL-SCB đã thiếu hẳn một đánh giá
chiến lược tác động môi trường [ĐTM/ EIA/ Environmental Impact Assessment] toàn
diện và khách quan, bị ảnh hưởng bởi quan điểm của chủ đầu tư/ nhóm lợi ích chỉ
để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, trong khi mà ai cũng biết là dự
án sẽ tác động tới toàn hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng diện
tích của ĐBSCL [hơn 1 triệu hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất
sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn
đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo. Và khi đã gây huỷ hoại trên hệ sinh thái
thường rất khó đảo nghịch.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Việt trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu
ĐH Cần Thơ [Viện DRAGON] nhận định: cắt đứt trao đổi nước giữa sông và biển chắc
chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới canh tác sản xuất của nông dân quen sống theo
nhịp thuỷ triều, giảm nguồn thuỷ sản bên trên và bên ngoài cống đập, và do nước
tù đọng sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.
Một chuyên gia Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần
Thơ, nhận định về sự khác biệt của hai chế độ thuỷ triều phía Biển Đông và Biển
Tây. Phía Biển Đông là bán nhật triều: nước lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển
Tây là chế độ nhật triều, nước lên xuống ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam Sông
Hậu chế độ thuỷ văn phúc tạp hơn nhiều, chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật
triều và bán nhật triều khác nhau. Trong khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành
theo một mô hình thô thiển: đóng cổng đập khi triều cường, mở cổng đập khi triều
kiệt. Hệ thống cống đập trên SCL-SCB sẽ gây rối loạn cho chế độ thuỷ văn vùng
này, làm "mất lực hút-đẩy" của chế độ thuỷ văn thiên nhiên [sic] nước
sẽ tù đọng tích luỹ ô nhiễm từ các chất thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước
thải không được xử lý đổ xuống từ các khu gia cư.
NHÂN DÂN TỈNH LONG AN ĐÃ MỘT LẦN NÓI KHÔNG
TS Lê Phát Quới, người Long An, giảng dạy tại Khoa Tài nguyên
& Môi Trường ĐH Quốc gia TP HCM, anh có giọng nói lớn, có nét trực tính của
người dân Nam Bộ, anh nói: "Sau công trình cống đập Ba Lai, trung ương có
kế hoạch xây thêm hệ thống cống đập trên cửa con sông Vàm Cỏ là kết nối của hai
con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Long An. Anh Lê Phát Quới thuật lại:
"Trong một cuộc họp với trung ương và cấp lãnh đạo tỉnh cùng với các nhà
khoa học - trong đó có thằng Quới, anh tự gọi mình là thằng, cuộc họp có cả ông
Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó. Khi tỉnh Long An được hỏi ý kiến, thì
lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời: sau khi phái đoàn tỉnh đi thăm cống đập Ba Lai
trở về, sau khi tham khảo ý kiến nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long An có câu
trả lời là không. Lưu ý các anh, là câu trả lời không phải từ tỉnh uỷ hay uỷ
ban nhân dân mà là toàn dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là tỉnh uỷ hay uỷ
ban nhân dân, thì trung ương có thể dùng quyền lực đảng hay quyền lực trung
ương để áp đặt, nhưng là tiếng nói của toàn thể nhân dân Long An thì khác. Và rồi
sau đó, kế hoạch bị gác lại."
Anh Lê Phát Quới đi tới kết luận: "nếu cứ để thực hiện hệ
thống cống đập trên con Sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa cho toàn hệ sinh
thái tỉnh Long An sẽ khủng khiếp như thế nào." Và anh Quới không dấu được
nét hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân tỉnh hạt mình.
[photo by Ngô Thế Vinh]
UỶ
HỘI MEKONG VN, VẪN MÃI MỘT ĐỊA CHỈ NGHỊCH LÝ
Từ
sau 1975, đất nước này nói chung trong đó có ĐBSCL đang được điều hành với những
"đầu óc nghịch lý".
Đứng
từ trên một chiếc phà đi ngang nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong
ráng chiều chập choạng của hoàng hôn, tôi qua sang hỏi một anh trong đoàn:
"Hỏi thật lòng anh, là hiện nay người dân ĐBSCL có cảm thấy hạnh phúc hơn
không so với trước 1975." Chỉ có một
câu trả lời khẳng định, nếu có thì là các gia đình không còn bị ly tán và đất
nước không còn chiến tranh.
Tôi
đã không hỏi anh thêm nữa vì thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng
tôi thì vẫn cứ bị ám ảnh với con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương
ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai. Cách biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng
có 700 ngàn người mới tới, không phải là một câu trả lời rốt ráo.
vẫn từ bao năm, vẫn toạ ngự tại địa chỉ 23 phố Hàng Tre
Hà Nội, nơi châu thổ Sông Hồng
cách xa ĐBSCL hơn 1,600 km, thay vì là Viện Nghiên cứu Biến
đổi Khí hậu, ĐH Cần Thơ.
[tư liệu Ngô Thế Vinh, photo by LN Hà]
Từ hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối
nguy cơ của những con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập
thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia: ngoài những hậu
quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và nhất là mất nguồn cát
nguồn phù sa, dẫn tới nguy cơ của một tiến trình đảo ngược khiến một ĐBSCL đang
dần dần tan rã.
Những mối nguy cơ từ thượng nguồn, gần như không làm gì được.
Nhưng quá trình phát triển tự huỷ / destructive development ngay nơi ĐBSCL
trong mấy thập niên qua cũng phải kể là những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng
trên sự sống còn của cả một vùng châu thổ.
Có thể kể, từ sau 1975:
_ Xây đê đắp đập chắn lũ mở rộng khu gia cư để làm lúa ba vụ làm
mất 2 túi nước thiên nhiên Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
_ Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của
hệ sinh thái ĐBSCL biến sông rạch thành một hệ thống hồ ao tù đọng.
_ Xây dựng 14 nhà máy nhiệt điện than nơi ĐBSCL gây ô nhiễm đất,
nước, không khí trên toàn vùng.
Phát triển với những bước không bền vững / unsustainable
development như trên đã làm tổn thương trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL và các nguồn
tài nguyên thì cứ nghèo dần đi.
Để thay kết luận, người viết gửi tới ông Bộ trưởng NN & PTNT
Nguyễn Xuân Cường, người thay thế Bộ trưởng Cao Đức Phát sau 12 năm tại nhiệm,
câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khoa:
Primum Non Nocere / First do no harm / trước hết là không gây hại. Mọi kế hoạch
vội vã, thiếu thời gian cho một lượng giá chiến lược ảnh hưởng môi trường [ĐTM]
khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh thái
vốn đã quá mong manh/ fragile của một vùng châu thổ mà trước đây đã từng được
đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.
Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để
thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm làm đê
ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt,
những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng vì
dòng chảy không lưu thông, tù đọng. Xây dựng cống đập Ba Lai đã rất tốn kém,
nhưng khi phát hiện sai lầm - nếu có thiện chí sửa sai, thì việc phá bỏ, làm sạch
môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất tốn kém và không thể
mau chóng và không phải là dễ dàng.
Tiếp tục biện pháp xây dựng công trình cống đập ngăn mặn rất tốn
kém sẽ cắt đứt thô bạo mối liên hệ cân bằng hệ sinh thái sông - biển - đồng bằng,
qua công trình cống đập Ba lai đã chứng minh là không tạo được lợi ích và giải
quyết được chuyện gì cho cư dân ĐBSCL mà còn đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá
vỡ hệ sinh thái của cả một vùng châu thổ.
Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một
đề nghị cụ thể với Thủ Tướng chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc: hãy cho hoãn
ngay Dự án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn - Sông Cái Bé một thời gian/ time
frame ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân sách 3,300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập
ngay một nhóm nghiên cứu ĐTM độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hoà Lan,
họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản
cho ĐBSCL], và bảo đảm rằng Đánh giá Tác động Môi trường được thực hiện một
cách công tâm, thận trọng bởi những người không có liên hệ gì tới chủ đầu tư
hay nhóm lợi ích, để sau thời gian 5 năm đó, nhà nước sẽ có được một bản tường
trình lượng giá ảnh hưởng môi trường đầy đủ khách quan và minh bạch, với tất cả
mọi tình huống pros & cons để từ đó mới có quyết định "nên hay không
nên" triển khai dự án được mệnh danh là công trình của Thế Kỷ ấy. Cũng
trong bản tường trình ấy, cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về nguyên
nhân nào đã khiến 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai.
Được như thế thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về ĐBSCL
[17/11/2017] trong đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên tắc:
“thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào
thiên nhiên.”
NGÔ THẾ VINH
ĐBSCL 12.2017 - 02.2018
Tham Khảo:
1/
Có còn con sông nước lớn, nước ròng? Lê Quỳnh. Báo Người Đô Thị online Thứ hai, 20/06/2016
http://nguoidothi.net.vn/co-con-con-song-nuoc-lon-nuoc-rong-4042.html
2/ Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba Lai trở thành ... mặn
quá. Phạm Văn Tri, TTXVN 06.08.2016 https://baomoi.com/thieu-von-du-an-ngot-hoa-song-ba-lai-tro-thanh-man-qua/c/20027474.epi
3/
Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án thuỷ lợi 3,300 tỷ đồng ở Miền Tây. Huỳnh Xây,
Dân Việt, 03.06.2017 http://danviet.vn/nha-nong/chuyen-gia-de-nghi-tam-dung-du-an-thuy-loi-3300-ty-dong-o-mien-tay-775724.html
4/ Phát triển ĐBSCL:
Tốn tiền tỷ mà trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu Thiện; VietnamNet
27.11.2017 http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-truong/phat-trien-dbscl-ton-tien-ti-ma-trai-quy-luat-thi-tra-gia-dat-413188.html
5/ Ngăn đập sông Cái Lớn - Cái Bé: ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng
không nhỏ. Phạm Anh; Tiền Phong 02.06.2017
https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ngan-dap-song-cai-lon-cai-be-dbscl-se-bi-anh-huong-khong-nho-1154506.tpo
6/ Băn khoăn xây cống Cái Lớn – Cái Bé, Sáu
Nghệ; Ánh Sáng và Cuộc Sống; 26.06.2017 http://anhsangvacuocsong.vn/ban-khoan-xay-cong-cai-lon-cai/
No comments:
Post a Comment