Ngô
Thế Vinh
LTS. Nhà văn Cao Xuân
Huy mất ngày 12 tháng 11 năm 2010; vậy mà cũng đã 6 năm rồi. Sau đây là bài
viết kết hợp của Ngô Thế Vinh, Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Y Thư để tưởng niệm tác
giả Tháng Ba Gãy Súng, nhân ngày giỗ thứ 6 của Anh.
Hình 1: Cao Xuân Huy, đời thường
[nguồn: tư liệu Trịnh Y Thư]
TIỂU
SỬ CAO XUÂN HUY
09-1947
năm sinh, quê nội Bắc Ninh, quê ngoại Hà Nam, Bắc Việt
10-1954
di cư vào Nam với mẹ
02-1968
đi lính Thuỷ Quân Lục Chiến, VNCH.
03-1975
bị bắt làm tù binh
09-1979
ra tù.
12-1982
vượt biên.
10-1983
đến Mỹ.
1984
định cư tại Nam California.
2005
chủ biên tạp chí Văn Học tới 04-2008
11-2010
mất tại Lake Forest, Nam California
Tác phẩm:
Tháng Ba Gãy Súng,
1985
Vài Mẩu Chuyện, 2010
TỰ
SỰ CAO XUÂN HUY VỚI THÁNG BA GÃY SÚNG
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ
là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi
viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần
trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã
trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về
những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới
mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có thân nhân
ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm
thù Việt Cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào
biết Việt Cộng là cái gì đâu. Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua
Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù
gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có
gì là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một
nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên
truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào
đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh
của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.
Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên
tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn
bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu
màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi
bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính
tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.
Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là
đại tá lữ đoàn trưởng và trung tá lữ đoàn phó bỏ lữ đoàn gồm bốn tiểu đoàn tác
chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người
trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng
dậy. Tôi giết Việt Cộng không gớm tay nhưng không bởi lòng căm thù vì giữa
chúng tôi và Việt Cộng đã có lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ
cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa
mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh
một cách tuyệt đối.
Làm
thuyền trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng thì phải sống chết
theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có
quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội. Chúng ta thua
không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản
bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp
chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả lữ đoàn tan
rã và bị bắt bởi khoảng hơn một đại đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba
năm 1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn
nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của
tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã phải trải qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục
này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở
trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó
trên báo đại khái "Để mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội
lớn, làm bé thì tội bé". Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau
lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm
cũng có tội luôn. Điều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.
Điều
tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình
vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã
là lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả
chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại cái lỗi đã làm cho mình ngã
lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi
cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung "lớn
lỗi lớn, bé lỗi bé" đúng theo cái kiểu "Quốc gia hưng vong thất phu
hữu trách". Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng
đành có lỗi vậy.
Tôi
không nhớ câu này của ai: "Cái đám quân thần của triều đình cũ chẳng có gì
phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống
gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ
làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi".
Đâu
phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại
bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Đâu phải những con xe, con
mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.
Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ có
mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác
đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến
đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi
tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm. Cái dĩ vãng thối tha và hèn
nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ.
Vẫn cái chính danh là chống Cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp
lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới. Với tư thế mới, họ
mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng được Việt
Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng
bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và
mới là người có tư cách làm.
Quyển sách này không hề là một tiểu
thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng
không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ,
còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng,
khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã
dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng
tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi
để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi? Tôi đặt chữ Gãy Súng
cho quyển sách này là như vậy.
Hình 2: Tháng Ba Gãy Súng,
Văn Khoa xuất bản lần đầu tiên 1986,
Văn Học tái bản 2004, với mẫu bìa Khánh Trường.
Đây là một bút ký chiến tranh được tái bản nhiều lần nhất
ở hải ngoại.
Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký
vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa
danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một
trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là
tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi,
chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn
toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã
thi hành.
Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu thuyết
thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái "những nhân vật và những sự
việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên
ngoài ý muốn...", trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã
không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết. Cao Xuân Huy
NGUYỄN
XUÂN HOÀNG ĐỌC CAO XUÂN HUY
Tháng Ba Gãy Súng. Hình như tên gọi của
truyện kể là điều trước tiên lôi cuốn tôi. Tựa đề của một cuốn sách vốn đơn
giản. Tháng Ba Gãy Súng là sự đơn giản quyến rũ. Tháng Ba là tháng thọ nạn của
miền Trung, khi cơn lốc đỏ từ miền Bắc lao xuống. Phải một thời gian sau nữa nó
mới đổ ập tới Sài Gòn yêu dấu cái Tháng Tư Đen hãi hùng và thống khổ. Cao Xuân Huy
đặt câu hỏi: Ai đã bẻ gãy súng của quân đội ta, những người lính dũng cảm, có
thừa mưu trí và kinh nghiệm chiến trường? Ai đã làm cho người lính chúng ta bó
tay, khi súng còn đó mà đạn đã hết ở trong nòng?
Tác giả cho thấy bên dưới những người và
việc là sự mất niềm tin của người lính trận trước một số cấp chỉ huy, những đàn
anh "khả kính" đã dứt bỏ hàng ngũ trong cơn quẫn bách để chạy lấy
thân, còn thì sống chết mặc bay!
Tháng Ba Gãy Súng vẽ lại cơn hồng thủy
của một cuộc chiến không thương tiếc, phủ chụp lên số phận của cả một dân tộc.
Trên bờ cát lạnh lẽo của biến cố, người ta nghe thấy tiếng động của những vòng
xích sắt nghiến lạo xạo trên sọ người.
Đó là cuốn sách chứa rất ít nụ cười
nhưng rất nhiều máu và nước mắt; niềm vui thì khô cằn mà đau thương và bất hạnh
thì màu mỡ phì nhiêu; tàn bạo và căm hờn là bình thường nhưng dịu dàng và thuận
thảo là điều xa lạ.
Chữ nghĩa trong Tháng Ba Gãy Súng giản
dị, tự nhiên và trong sáng. Nhưng người đọc biết rõ một cách mười mươi rằng để
có được những dòng chữ tưởng chừng như dễ dàng đó, Cao Xuân Huy đã phải trả một
giá khá đắt: sự thách đố của anh với tử thần trong những đường tơ kẽ tóc để đổi
lấy phẩm giá làm người. Có thể nói Tháng Ba Gãy Súng đã được viết bằng một trái
tim nóng bỏng trước khi được gọt dũa và trau chuốt bằng một bút pháp nghề
nghiệp. Nhưng điều này không hề làm hạn chế sức sống của tác phẩm.
Những ai ham đọc sách đều biết rằng các
nhà văn lừng danh trên thế giới như Flaubert, Hemingway, Dickens, Tolstoi... đều
đã viết bằng một thứ ngôn từ tự nhiên và giản dị.
Trong một lần gặp gỡ tác giả, tôi hỏi
anh tại sao lại xếp Tháng Ba Gãy Súng vào thể loại Hồi Ký mà không là Truyện Kể
hay Truyện Ký, Cao Xuân Huy trả lời: "Bởi vì tôi đã không lồng vào đấy bất
cứ một hư cấu nhỏ nào. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy tai
nghe. Chỉ tiếc một điều là tôi đã không đủ khả năng để viết được tất cả những
gì tôi cần phải viết".
Thật vậy, văn chương vốn cần hư cấu,
nhưng hiện thực tự nó cũng thừa sự lớn lao và sâu sắc mà một trí tưởng tượng
khiêm tốn đôi khi còn nghèo nàn và nông cạn hơn. Nói cách khác, hư cấu trong
một tác phẩm tuy cần thiết, nhưng hiện thực bao giờ cũng là nền tảng để từ đó
hư cấu có thể thành hình và đứng vững.
Chính cái hiện thực này đã khiến cho
ngòi bút của Cao Xuân Huy có được cái vẻ sắc sảo đặc biệt, đồng thời cũng làm
cho Tháng Ba Gãy Súng giữ được cái vẻ tươi mát nóng bỏng mà mọi thứ hư cấu rắc
rối không sao đạt được.
Và nghệ thuật của Cao Xuân Huy nằm ở chỗ làm cho tác phẩm của anh có
được sức thuyết phục mạnh mẽ hơn cái nó vốn có trong thực tế.
Thích
nhất là những mẩu đối thoại trong Tháng Ba Gãy Súng. Nó nguyên chất, nhưng
không dư thừa và tầm thường. Nó chưa bị chảy qua cái máy lọc "văn chương
triết lí" nào. Nó sống và chát. Và rất gần với chúng ta.
Trả lời câu hỏi động cơ nào khiến anh
viết Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy nói: "Không ai là không quay lại nhìn
chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa
thải. Ngã là lỗi của chính mình và phân có thối cũng là phân của mình. Vậy mà
tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay lại nhìn cái lỗi đã làm cho
mình ngã ngay trên đống phân của mình, ngoài những lời chửi bới và đổ lỗi cho
người khác".
Tất nhiên câu nói của anh còn có chỗ
phải bàn thảo lại, suy nghĩ thêm, nhưng ở đây trong khung cảnh đặc biệt của
Tháng Ba Gãy Súng, câu nói đó có cách lí giải riêng của nó.
Trước khi cầm bút viết lại những ngày
tháng của lịch sử một trận chiến mà mình là một chứng nhân, Cao Xuân Huy đã là
một sĩ quan chiến đấu thuộc một binh chủng lừng danh chiến trường mà mọi người
chúng ta đều nghe tiếng: Thủy Quân Lục Chiến.
Chiến trường, sống và viết, Cao Xuân
Huy có đủ những yếu tố đó để viết những trang văn xuôi nóng bỏng của mình.
Cao Xuân Huy nói: "Đất nước ta
đâu phải là một bàn cờ mà hễ đánh thua ván này thì xóa đi xếp quân làm lại bàn
khác, mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân, đâu phải những con xe, con mã,
con chốt đã chết đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận đấu mới!"
Những
suy nghĩ đó của anh không hề có ý định dừng lại ở chỗ chỉ là những điều viết ra
để ngẫm nghĩ.
Khi trang cuối của Tháng Ba Gãy Súng
được gấp lại, người đọc hình như vẫn cảm thấy còn một điều gì đó chưa xong chưa
hết. Cái dấu chấm hết của mệnh đề sau cùng vẫn còn là một lời hứa hẹn sẽ mở ra
một trang sách khác.
Dù
sao những hình ảnh tàn nhẫn và khủng khiếp, những nỗi lo âu và hãi hùng vẫn còn
đọng lại trong ta.
Vẫn còn đọng lại trong ta những địa
danh, địa hình, địa điểm quen thuộc của một vùng đất quê hương khô cằn, cả thời
tiết của đất trời mà da thịt ta vốn từng chịu đựng, và nhất là vẫn còn đọng lại
trong ta hình ảnh những con người - trong đó có chúng ta - với số phận hẩm hiu
cô quạnh bị bủa vây trong cơn cuồng nộ của những biến cố bạo tàn...
Tất cả những người và việc ấy chừng
như mới xảy ra ngày hôm qua, vẫn còn luẩn quẩn đâu đây...
Với Tháng Ba Gãy Súng, Cao Xuân Huy
đã viết được "những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con
người", điều mà Ernest Hemingway gọi là "trên đời này thật không có
gì khó khăn hơn".
Nguyễn-Xuân
Hoàng
Santa Ana, tháng Tư
1986
Nguồn:
Talawas http://talawas.org/talaDB/showFile.php?res=536&rb=0102
Cũng được cho biết Tháng Ba Gãy Súng
đã được tái bản đến 14 lần, và sách đã có mặt trong các thư viện lớn trên thế
giới. Có lẽ chưa một cuốn sách nào ở hải ngoại được tái bản nhiều lần và được
tìm đọc nhiều đến như vậy. Cuốn sách cũng được đưa nguyên vẹn vào bộ trường
thiên tiểu thuyết “Mùa biển động” của nhà văn Nguyễn Mộng Giác như một chương
kết.
MỘT
CAO XUÂN HUY KHÁC
Trong tình bằng hữu nhiều năm với Huy,
được sự đồng ý của chị Cao Xuân Huy và hai cháu Chúc Dung & Xuân Dung, bài
viết thiên về khía cạnh y khoa này, nói về một Cao Xuân Huy khác, người bệnh
Cao Xuân Huy chênh vênh trên con dốc của tử sinh, đã can trường chống chỏi với
bệnh tật cho tới những ngày và giờ phút cuối cùng và đã ra đi với tất cả “phẩm
giá,”
*
Melanoma là loại ung thư phát triển từ
những tế bào sản xuất sắc tố melanin / melanocytes, yếu tố định hình màu da của
mỗi chủng tộc. Thông thường melanoma là loại ung thư da / melanoma skin cancer,
nhưng mắt cũng có thể là nơi phát triển loại ung thư này, tuy khá hiếm. Ung thư
sắc tố melanoma trong mắt thì không dễ phát hiện như ở ngoài da. Khi phát hiện
thường là đã trễ. Đó là trường hợp Cao Xuân Huy, rất tình cờ, khi Huy nheo một
bên mắt thì mắt kia không thấy gì. Huy báo tin cho tôi biết.
Khi đột ngột mất thị giác một mắt, phải
nghĩ tới những nguyên nhân khẩn cấp khác [ như bong võng mạc / retinal
detachment, tai biến mạch máu não / stroke, thiên đầu thống / migraine, cao áp
nhãn / glaucoma…] thay vì nghĩ ngay tới ung thư mắt. Một bác sĩ nhãn khoa Việt
Nam đã khám ngay cho Huy, chẩn đoán lâm sàng đầu tiên cho đây có thể là do một
loại nấm khá hiếm mọc trên võng mô / retina. Nhưng cũng rất sớm, những ngày sau
đó, UCLA đã có một chẩn đoán chính xác cho Huy: ung thư sắc tố mắt / ocular
melanoma. Từ đây, trong suốt bài này chỉ đơn giản gọi là “melanoma-mắt.”
Không rõ nguyên nhân, nhưng số người
mắc bệnh melanoma-mắt thì cao hơn ở nhóm người da trắng, mắt xanh [ không phải
Huy], hoặc cũng có thể vì “hiệu ứng gây ung thư / oncogenic effects” do phơi
ngoài nắng lâu dài; riêng đặc tính này thì Huy được xem như “overqualified”, do
những năm dài lính tráng hành quân khắp bốn vùng chiến thuật và sau đó là thêm
những năm lao động khổ sai tù đầy ở một xứ sở nhiệt đới như Việt Nam. Nói thêm,
theo thuật ngữ y khoa, thì đây có thể là do “sai lầm của gene biến thể /
mutated gene” đã ra lệnh hoảng cho các tế bào sản xuất melanin tiếp tục phát
triển thay vì bình thường theo chu kỳ lão hóa và rồi chết đi. Y khoa bước đầu
cũng đã tìm ra những “dấu ấn phân tử / molecular markers” trong nhiễm sắc thể /
chromosome để phát hiện rất sớm các di căn.
Melanoma-mắt là loại ung thư hiếm, rất
thầm lặng và khi phát hiện thường là trễ với hơn 50% đã có di căn, nên tuổi thọ
/ life expextancy của những bệnh nhân này rất là ngắn, còn khoảng từ 2 tới 7
tháng; chỉ có khoảng 15% bệnh nhân là sống lâu hơn 12 tháng. Lý do chính là
melanoma mắt với di căn tới gan, hầu như kháng lại mọi điều trị.
Melanoma-mắt có thể hoàn toàn không có
triệu chứng gì ban đầu, khi có triệu chứng cũng không đặc thù như lóa mắt /
flashing lights, mờ mắt / blurred vision hay với triệu chứng nhức mắt do tăng
nhãn áp / glaucoma hoặc mất thị giác / vision loss [trường hợp của Huy], và
diễn tiến lâm sàng thì rất bất định về thời gian trước khi có di căn tới các bộ
phận khác ngoài xa mắt như gan, phổi, não và xương.
Các xét nghiệm và phương pháp chẩn đoán
bao gồm: thử máu chức năng gan, siêu âm mắt để phát hiện bướu trong mắt, chụp
mạch máu mắt với chất cản quang, và có thể cần tới sinh thiết / biopsy vùng bướu
trong mắt để xác định loại ung thư. Tiếp theo là theo dõi định kỳ, cũng với xét
nghiệm máu, hình phổi, CT scan thay MRI để phát hiện sớm vùng bị di căn. UCLA
đã cung ứng cho Cao Xuân Huy gần như đầy đủ những “tiêu chuẩn” như vậy.
Nhưng yếu tố thời gian vẫn là tiên
quyết. Thử chức năng gan đôi khi vẫn bình thường nhưng có thể ung thư đã lan
tới gan, với những di căn rất nhỏ / micrometastases.
Melanoma-da và melanoma-mắt, tuy cùng
tên gọi nhưng lại là hai loài “dã thú” khác nhau. “Hóa trị / chemotherapy” có
thể hiệu quả với melanoma-da nhưng lại gần như “bất trị” đối với trường hợp thứ
hai. Kinh nghiệm điều trị di căn / metastases gan từ melanoma-mắt không nhiều.
Hiệu quả điều trị được định nghĩa như bướu di căn thu nhỏ lại 50% hay hơn. Nếu
đáp ứng chỉ được 15% không khác với hiệu ứng placebo/ giả dược thì việc tiếp
tục điều trị thêm nữa chỉ làm thống khổ thêm người bệnh trong những tháng ngày
ngắn ngủi còn lại.
Hình 3: người lính Cao Xuân Huy 2007 và Mẹ già
[nguồn: TQLC, Úc Châu]
Cao
Xuân Huy không là con bệnh của phẫu thuật / surgical candidate. Khởi đầu, Huy
được xạ trị / radiation therapy trên vùng mắt bệnh hay từ chuyên môn còn gọi là
brachytherapy, như một loại kim phóng xạ / radioactive seeds.
Sau bước điều trị ấy, Huy vẫn được UCLA
thường xuyên theo dõi. Do chỉ còn nhìn được với một mắt nên tầm thị giác của
Huy bị giảm đáng kể, mất khả năng lượng giá chiều sâu / depth perception, nhưng
Huy thì vẫn thản nhiên sinh hoạt bình thường, hàng ngày lái xe khá xa từ nhà ở
Lake Forest đi làm trên Little Saigon, khi lái xe về nhà ban đêm Huy đã thấy
khó khăn hơn.
Hóa trị liệu được dùng trong điều trị
melanoma da và mắt. Thuốc cho qua đường tĩnh mạch, theo đường dẫn của máu tới
vùng ung thư nhằm nhanh chóng giết chết các “tế bào ác”. Cũng không tránh được
thuốc ấy giết hại cả những tế bào lành. Và dĩ nhiên có vô số những biến chứng
phụ / side effects do thuốc, khiến không ít số bệnh nhận phải bỏ cuộc, bao gồm:
trầm cảm, mỏi mệt, nôn mửa xuống cân, thiếu máu, giảm bạch cầu nghiêm trọng /
neutropenia làm mất khả năng đề kháng dễ bị nhiễm trùng nặng gây tử vong…Tiến
bộ của y khoa đã có những thuốc mới làm giảm thiểu các phản ứng phụ này. Chỉ
khoảng 20% bệnh nhân malanoma-da có đáp ứng điều trị. Chưa có hóa trị liệu nào chứng
tỏ có hiệu quả đối với di căn melanoma-mắt xuống gan, như trường hợp Cao Xuân
Huy.
Bướu di căn của loại melanoma này
không phải chỉ có một, do có nhiều bướu nhỏ trong gan, nên phẫu thuật cắt bỏ /
resection không có chỉ định trong trường hợp này.
Người lính Cao Xuân Huy 2007 và vợ, Úc Châu;
[nguồn: tư liệu gia đình Cao Xuân Huy]
Nói chung, một số loại ung thư có thể
chữa lành, nhưng melanoma-mắt với di căn gan thì không có hay đúng hơn là chưa
có trong danh sách ấy, nó thuộc loại rất “ác tính” vẫn còn là một thách đố với
tiến bộ của y khoa trong thế kỷ 21.
Cũng như khi cầm bút, Huy viết về cái
xấu cái tốt của mình một cách thản nhiên, thì nay nói về bệnh ung thư mắt của
mình cũng với một sự thản nhiên như vậy, trong khi người nghe thì không tránh
được nỗi xúc động hay cả hốt hoảng. Một người bạn thân sau khi gặp Huy đã phát
biểu: “Huy bệnh ngặt nghèo như vậy mà chính mình lại như được nó an ủi.”
Theo dõi Huy, mới thấy Huy là người
bệnh khá mẫu mực, dứt bỏ rượu dễ dàng, rất kỷ luật trong từng giai đoạn điều
trị, Huy cũng đã nhận được những chăm sóc y khoa tiên tiến nhất mà anh rất xứng
đáng được hưởng. Đổi lại, Huy đã cống hiến cho y khoa một “case study” tốt nhất
trong cuộc chiến đấu khuất phục loại ung thư mắt dữ dằn này.
Huy đã can đảm chịu đựng, vượt lên
trên những thống khổ do hậu quả của các bước điều trị mà ngay từ bước đầu đã
không có một hứa hẹn thắng lợi nào. Anh cũng được báo trước rằng khi chấp nhận
điều trị, phẩm chất những tháng ngày còn lại của anh có thể sẽ bị ảnh hưởng
không những thế quỹ thời gian của Huy còn có thể bị rút ngắn hơn. Huy đã can
đảm chấp nhận tất cả.
Huy và tôi, qua cell vẫn liên lạc với
nhau hàng tuần, thường là ngày thứ Năm sau ngày tái khám ở UCLA về. Thường là
tôi phone cho Huy, nhưng lần này Huy gọi tôi báo tin cho biết CT scan mới phát
hiện có bướu nhỏ trong gan. Nhiều phần có thể là do di căn từ ung thư mắt nhưng
cũng có thể là một bướu gan tiên khởi / primary tumor không có liên hệ gì tới
melanoma-mắt, khi mà tỉ lệ ung thư gan do viêm gan siêu vi B của người Việt Nam
hay các sắc dân Á châu nói chung khá cao. Dù trường hợp nào thì điều trị cũng
là rất khó khăn.
Tuần lễ sau đó, con gái Huy đưa bố vào
UCLA làm biopsy / sinh thiết gan, và chưa bao giờ nghe Huy mở miệng than đau.
Kết quả sinh thiết gan xác định bướu gan là do di căn từ ung thư mắt. Không thể
giải quyết bằng phẫu thuật, mà xạ trị / radiation therapy hay hóa trị /
chemotherapy đều không có hiệu quả với loại di căn này. Cuộc chiến đấu sắp tới
của Huy có phần gay go hơn. Huy rất biết có một dự hậu / prognosis không sáng
sủa như vậy nhưng vẫn chấp nhận “một vòng / cycle hoá trị liệu” đầu tiên, mỗi
tuần vào ngày thứ Tư trong 6 tuần lễ. Huy vượt qua vòng đầu một cách dễ dàng dĩ
nhiên cũng phải trải qua tất cả những biến chứng phụ do thuốc. Thời gian này,
Huy vẫn tự lái xe đi làm và cả cuối tuần thì gặp gỡ các bằng hữu. Tái lượng giá
sau vòng 1 hoá trị, vùng di căn ổn định, không lớn ra hay phát tán thêm. Như
một chút ánh sáng cuối đường hầm, nhưng không thể nói điều trị đã có hiệu quả.
Trong cuộc chiến rất không cân xứng ấy, thắng lợi đầu tiên không phải là diệt
mà là “cầm chân địch”. Và Huy chấp nhận thêm một “vòng hóa trị thứ hai”, cũng
mỗi tuần trong 6 tuần lễ nữa.
Không biết bên địch tổn thất bao
nhiêu, nhưng rõ ràng Huy bắt đầu phải trả giá. Tuần lễ đầu tiên, sau lần hóa
trị của vòng 2, Huy cho biết, ngoài các phản ứng phụ đã trải qua như ở vòng
đầu, thì lần này khắp mình mẩy thêm cái “đau như xé thịt” _ chữ của Cao Xuân
Huy. Huy chưa bao giờ biết than đau, có nghĩa là ngưỡng chịu đau / pain
threshold của Huy rất cao, cái đau 10/10 vẫn không khiến Huy có ý định bỏ cuộc.
Tuần lễ thứ hai, với sự dè dặt của toán điều trị, nhưng Huy vẫn yêu cầu tiếp
tục bước thứ hai. Vẫn cái “đau xé thịt” ấy nhưng cường độ thì lớn hơn và kéo
dài hơn mấy ngày sau khiến Huy phải cần thuốc giảm đau. Đây là một khúc rẽ quan
trọng, do sức người có hạn, Huy không thể đi những bước tiếp theo, theo lượng
định của toán điều trị chứ không phải do Huy. Sự can trường với sức mạnh tinh
thần vốn có của Huy đã không tỉ lệ với thể trạng của Huy bây giờ. Huy cần một
“thời gian dưỡng thương” trước khi có thể hoạch định một bước điều trị khác.
Rồi bước tái lượng giá tiếp theo, Huy
được báo cho biết bướu di căn cũ thì đã lớn hơn và có thêm nhưng di căn mới
trong gan. Riêng Huy cũng cảm thấy vùng gan bây giờ không chỉ cứng hơn mà còn
lớn hơn và ăn uống thì khó khăn. Từ đây Huy xuống sắc, xuống cân và yếu đi rất
nhanh, duy tinh thần thì vẫn vững vàng. Như từ bao giờ, Huy vẫn với thái độ rất
thản nhiên, và như không có gì để hối tiếc.
Có
lần gặp Huy đã quá yếu, không còn đứng vững trên hai chân, sắp ngã quỵ mà Huy
vẫn không muốn vịn trên cánh tay người bạn đứng bên mình.
Như vậy UCLA cũng đã bó tay, và gửi trả
Huy về với bác sĩ gia đình. Thay vì đưa vào hospice / nơi chăm sóc người cận
tử, thì Huy vẫn sống với sự chăm sóc đầy ắp thương yêu của gia đình với vợ và
hai con.
Chủ Nhật 07/11/2010, lễ hứa hôn con gái
thứ hai của Huy [ cháu Xuân Dung ] được tổ chức sớm hơn trong gia đình cho Huy
vui và Huy đã thực sự vui với ngày vui ấy của con gái. Sau này tôi khám phá ra
một điều, một Cao Xuân Huy tuy cứng cỏi nhưng cũng biết sợ, rất sợ đứa con gái
thứ hai. Huy có thể không nghe đôi lời khuyên của tôi, nhưng những gì nhắn qua
qua Xuân Dung, như mệnh lệnh của trái tim, tôi biết chắc Huy sẽ làm.
Hoàng Chính Nghĩa, Cao Xuân Huy, Ngô Thế Vinh
[nguồn: photo by Phạm Bích Hoan 2006]
Những ngày sau đó, các cơn đau khiến
người Huy co lại nhưng Huy vẫn không muốn dùng nhiều thuốc giảm đau. Cuối cùng
thì phải cần tới morphine với liều lượng càng ngày càng tăng mỗi hai tiếng và
cũng chỉ phần nào giảm các cơn đau đổ ập tới. Huy thì vẫn khắc kỷ chịu đựng,
không rên siết hay một lời than đau và vẫn không thiếu nụ cười hiền với người
thân và các bằng hữu rất quý Huy tới thăm.
Năm ngày sau, 4 giờ 53 chiều thứ Sáu 12
tháng 11, Huy đã yên tĩnh và mãn nguyện ra đi vẫn bên sự chăm sóc thương yêu
của vợ con và có thêm hai người bạn vô cùng thân thiết: một từ thuở thơ ấu, Bs
Nguyễn Đức mới tới từ Florida, một từ thời quân ngũ TQLC, anh Trần Như Hùng đã
đến kịp từ Úc Châu.
Bước trên con dốc chênh vênh của tử
sinh, trong cuộc chiến không cân sức ấy, Cao Xuân Huy như một người bệnh mẫu
mực, đã can trường hoàn tất cuộc chiến đấu cuối cùng của đời mình, với tất cả
sức mạnh tinh thần và đã ra đi với nguyên vẹn phẩm giá / with dignity.
BÀI
THƠ THÁNG BA TRỊNH Y THƯ
eMail Trịnh Y Thư 12 tháng 11, 2016, cũng là
ngày giỗ thứ 6 của Cao Xuân Huy. Bài thơ TYT làm ngay tối hôm CXH trút hơi thở
cuối cùng. Bức ảnh trong bài thơ do TYT chụp lúc tro CXH thả xuống biển Laguna
Beach 100 ngày sau.
Tháng
Ba, hãy trôi đi
Tháng ba đỉnh trời toác máu
lũ
kên kên chao chiêng mùi tử khí trào dâng
tháng
ba xác trẻ và người già
Nằm
bên nhau thanh thản nghe gió vi vu
bờ
lau Cửa Việt sóng bủa lớn
nuốt
chửng –
Thành
phố lạ, biển đen không đâu là nhà
tên
tuổi lãng quên như râu tóc
bản
nháp cuộc đời viết mãi chưa xong
Đêm
trổ mưa, đi về như cơn mộng
rượu
đỏ máu bầm cũng thế thôi
ngan
ngát hoàng lan chờ bên khung cửa
Chua
xót viên đạn cũ còn sưng vết thương
tháng
ba trở về bờ cát đỏ
tháng
ba trôi đi như ngàn sương
Lạ
thổ ngơi lạ cả tình
bên
kia núi còn nghe đồng vọng
u
uất đêm trăng –
Chờ
ngày hóa thân
cõi
lạ vừa nằm xuống đã thấy biển xưa
cát
trắng mái nhà nâu hàng dừa
Hãy
trôi đi tháng ba.
Trịnh
Y Thư
12.11.2010
NGÔ
THẾ VINH
California,
16.11.2010
Nhớ
Ngày Giỗ thứ 6 Cao Xuân Huy 12.11.2016
No comments:
Post a Comment