T.Vấn
Lưu
Na đã từng làm quen và được độc giả Phố Văn yêu mến trong những năm qua với những
bài bài tạp bút, truyện ký đặc sắc và cả những tấm hình chụp mang màu sắc mỹ
thuật. Cô là một ngòi bút trẻ, với cái nhìn khác hẳn những người viết trước và đồng
thời. Lưu Na cảm nhận đời sống và những sự biến lịch sử với tâm hồn của một người
nữ còn nét tươi trẻ, lãng mạn nhưng đã chín chắn với cá tính riêng. Chúng ta yêu
mến và quý trọng Lưu Na ở những cảm nhận ấy qua một văn phong đẹp, chuẩn xác và
tinh tế.
Hiểu
rõ và nắm bắt được vẻ đẹp và chiều sâu của những trang viết Lưu Na không ai bằng
nhà văn T. Vấn, người chủ trang web T. Vấn và Bạn Hữu. Phố Văn xin trân trọng
giới thiệu bài tựa của ông và tác phẩm Lênh Đênh của Lưu Na.
NGUYỄN
& BẠN HỮU
Truyện kể của một thế
hệ.
Trong
lời tựa của tác phẩm Bếp Lửa (1965),
nhà văn Thanh Tâm Tuyền viết ở dòng cuối cùng:
Mỗi nhà văn chính là
một kẻ sống sót.
Sống
sót để làm gì? Chắc chẳng phải để sống nốt cuộc đời riêng của mình. Nếu chỉ có
thế, hẳn chúng ta sẽ không có một Bếp Lửa kinh điển vẫn còn được đọc lại sau
hơn 50 năm. Kẻ sống sót năm ấy đã trở thành một nhà văn. Hơn nữa, một nhà văn
tiêu biểu của thế hệ mình.
Mỗi
một thế hệ Việt Nam đều có người sống sót để kể lại câu chuyện mà mình và những
kẻ cùng thời đã kinh qua. Sẽ không quá cường điệu khi nói rằng Lưu Na là người
của thế hệ một rưỡi sống sót để kể lại cho chúng ta nghe về nỗi đoạn trường mà
thế hệ của cô đã bị buộc phải sống và chết với nó. Và tôi cũng không thể chối
bỏ rằng nỗi đoạn trường ấy có nguồn gốc từ sự thất bại của thế hệ chúng tôi,
một thứ gia tài của mẹ rách nát, khốn cùng để lại cho kẻ đến sau.
Mang tâm trạng ấy, tôi đã đọc Lênh Đênh của Lưu Na.
Đó là câu chuyện của những thanh niên
thiếu nữ miền Nam đang còn ở những năm cuối bậc trung học thì biến cố 30 tháng
4 năm 1975 xẩy ra. Nhìn những người phía bên thắng trận hùng hổ bước vào từng
ngõ ngách đời sống thường ngày của mình: trường học, sinh hoạt tập thể, quan hệ
bạn bè thầy trò, quan hệ gia đình v.v…, họ hoang mang, lo lắng, sợ hãi, bất
mãn, rồi buông xuôi, hoặc “nín thở qua sông”, hoặc gió chiều nào che chiều nấy,
hoặc công khai đương đầu, hoặc cùng với trào lưu người dân miền Nam lúc ấy, tìm
cách vượt biên, vượt biển, băng rừng ra khỏi mảnh đất quê hương, vì những kẻ
bên thắng trận đã biến nó thành một nhà tù khổng lồ giam hãm những đồng bào kém
may mắn của mình.
Nhân vật chính của “Lênh Đênh” là một cô
gái trong số hàng chục, hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ nhắc đến ở trên. Để
cứu vãn tuổi trẻ của mình, cô chọn con đường vượt biên. Vì, theo cô: ”Vượt biên
là xuyên tâm liên chữa bá bịnh từ thể xác tới tâm hồn, là mảnh bằng cao nhất
của đại học, là trang sức quí giá của xã hội bây giờ. . . “.
Nói chọn cũng chỉ là một cách nói, vì cô
nhờ là “bồ” của một thanh niên có gia đình tổ chức vượt biên nên cô được họ
bằng lòng cho đi theo. Vả, số phận hay chọn lựa, trong trường hợp của cô gái
trẻ, đều không sai. Giống như hàng vạn những mảnh đời tuổi trẻ khác trên một
nửa đất nước những ngày ấy, những ngày mà cả đất nước ai cũng biết đến sự
“nhiệm màu” của “thần dược Xuyên Tâm Liên”.
Cô gái trẻ may mắn được đặt chân lên đảo
tị nạn mà không bị hề hấn gì. Nhưng cô cũng đã có cơ hội được chứng kiến những
dư chấn buốt lòng ở những cô gái bị hải tặc hãm hiếp trên con đường vượt biển.
Sự may mắn của cô đã biến cô thành một kẻ có tội với những người đồng lứa kém
may mắn của mình. Đó là cảm giác kinh khủng quá sức chịu đựng của một cô gái
trẻ vừa qua tuổi trăng tròn, cộng thêm thời gian ở đảo tị nạn đủ dài và cuộc
sống trên đảo đủ sâu để cô biết cay đắng triết lý “ . . . mỗi sự sống đều bao gồm tai ương khổ đau
hạnh phúc lúc biến lúc hiện, mà thuyền nhân là mặt hiển lộ của cái mình quen
gọi là bất hạnh. . . ” và sự khẳng định buồn bã “. . . Đảo tị nạn không chỉ xóa lối về mà tẩy
trắng luôn những tờ hồn trắng, để lại những vết gôm nham nhở xám buồn. . .”.
Khoảng
thời gian đầu của làn sóng vượt biên, dù chờ đợi ‘thanh lọc” lâu hay mau, thì
sớm muộn gì thuyền nhân cũng được đưa đi định cư ở một nước thứ ba. Thế nên, cô
gái trẻ của “Lênh Đênh” cũng đã “đến Mỹ một ngày tháng Hai xám buồn”.
Đất lạ quê người. Thêm những người mà cô
chung chạ suốt từ thời gian ở đảo cũng như khi đến Mỹ chẳng phải là người thân
ruột thịt, và cái gọi là “mối tình” giữa cô và anh thanh niên thuộc về gia đình
ấy ngày cứ một phai nhạt đi, nên cảm giác bơ vơ là điều cô gái trẻ không thể
tránh khỏi. Dù chính cô đã “chọn lựa” đặt chân xuống thuyền ra đi nhưng không
khỏi có lúc cảm giác bơ vơ đã đẩy cô đi xa hơn nữa để biến thành cảm giác “bị
bỏ rơi”. Nếu cảm giác “bị bỏ rơi” là hiện thực, thì không phải chỉ mình cô bị
bỏ rơi, mà là tất cả những người thuộc thế hệ cô bị bỏ rơi. Cũng dễ hiểu. Thế
hệ đàn anh của cô lúc ấy đều đã “tự mình đem thân vào rọ”, mãi nhiều năm sau
mới thoát ra, đặt chân được đến xứ người bên cạnh cô thì họ cũng “bơ vơ” không
kém. Nhưng đến lúc này thì cô đâu có còn cần đến họ, hay bất cứ ai khác nữa. Cô
đã tự mình bươn chải, học sống với người lạ, học ngôn ngữ lạ, làm quen với văn
hóa lạ, bên cạnh một tâm trạng vẫn còn lưu luyến mảnh đời cũ quê nhà, có “Má,
với chái bếp hè đường . . .”, và những kỷ niệm khó quên của một thời tuổi trẻ
với bạn bè, với chính những bài hát “cách mạng” đã “như những vết mực lem hay
những vết chàm trên thân thể tâm trí không dễ nhận ra để kịp thời xóa bỏ . . “.
Dầu vậy, cô gái trẻ, cũng như bao người tị nạn khác, già trẻ lớn bé, có quá khứ
hay không có quá khứ, một mình hay hai mình, hay nhiều mình, đều phải tìm cách
loay hoay sống cho hết cuộc đời mình, dù có lúc cô thú nhận “cuộc sống rất tầm
thường mà thật khôn kham.”.
Cuối cùng, cuộc sống của cô gái trong
“Lênh Đênh”, của những người trẻ thế hệ cô cũng đã ổn định trên xứ người. Phần
lớn họ đều đã cố gắng học hành để có được mảnh bằng kiếm sống như những người
trẻ bản xứ. Thế nhưng, suy tư của họ không đơn giản như cách họ sống, như những
thế hệ lớn hơn thường nghĩ về họ. Giờ đây, cô gái trẻ năm xưa đã hoàn toàn
trưởng thành, đã có đủ những gì mình mong muốn, và đến lúc sự ổn định ấy quay
lại hành hạ cô. “ . . . Ngà đã chấp nhận
mình không còn bao giờ có thể gặp lại gia đình, không còn có thể là một người
con dân của đất nước. Ngà biết mình chỉ còn một con đường là sống và chết ở nơi
này -đó không còn là chuyện núi lở sông tan gì. Chấp nhận, nhưng có nỗi ngao
ngán âm thầm khi Ngà nghĩ đến những gì sẽ đạt được: một mảnh bằng một công việc
tốt một mái nhà một hôn nhân đùm đề con cái, và một vuông đất cuối đời. Nếu xem
những thành đạt có thể có đó là ý nghĩa chung quyết của cuộc sống, Ngà buồn rầu
nghĩ rằng đó thực ra là điều sỉ nhục cho cố gắng của mình, của muôn người đã
dùng hết sức mình vượt cơn hồng thủy nơi quê nhà, nơi biển dữ. . .”.
Ngà, cô gái trẻ của “Lênh Đênh”, là khuôn
mặt điển hình một thế hệ bị đàn anh “bỏ rơi” khi họ chưa đủ sức để có thể đảm
đương được cuộc đời mình, nói gì đến sứ mạng mà thời đại sẽ giao phó cho họ.
Mặc dù sự “bỏ rơi” ấy xẩy ra chẳng qua là do vận nước nổi trôi, nhưng trước
lịch sử, thế hệ đàn anh của cô gái vẫn không thể rũ bỏ được trách nhiệm của
mình.
Giọng kể của Lưu Na trong “Lênh Đênh”
chậm rãi, từ tốn ( so với số tuổi của cô), nhưng vẫn có những đoạn bứt phá, như
thể cảm xúc bị dồn nén phải tìm cách thoát ra khỏi cái khuôn bình tĩnh giả tạo.
Những lúc ấy, người đọc mới cảm được nỗi buồn âm ỉ trong giọng người kể truyện.
Một thứ hiệu ứng tâm lý được tính toán qua kỹ thuật kể truyện theo lối văn
chương Mỹ hiện nay chăng? Thú thật, tôi không dám quả quyết. Chỉ ngạc nhiên một
điều, tác giả rời khỏi cái nôi tiếng Việt từ khi mới 17, 18 tuổi, vốn liếng
ngôn ngữ mẹ đẻ mang theo có thể chỉ từ những trang báo Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc hoặc
vài quyển sách dành cho tuổi dậy thì; hoặc cao hơn nữa thì cũng chỉ vài quyển
sách thời thượng trước 75. Vậy mà ngôn ngữ trong “Lênh Đênh” mang một vóc dáng
khá chững chạc, có chiều sâu khá lôi cuốn, và đáng kể nhất là độ nhuần nhuyễn
trong cấu tạo câu chữ đúng cung bậc, đúng liều lượng, không quá đà, cũng không
hụt hơi, cho thấy độ chín tới của một ngòi bút tuy “mới” mà không có chút gì
gọi là “non nớt”. Có lẽ là nhờ những năm tháng “mê sách báo” sau khi cuộc sống
nơi xứ người tạm ổn định, vớ được quyển sách tiếng Việt nào cũng ngấu nghiến
như kẻ chết đói mà tác giả đã từng tâm sự trong những bài viết rải rác đây đó
chăng?
Dẫu sao, như Thanh Tâm Tuyền với “Bếp
Lửa”**, như Cao Xuân Huy với “Tháng ba gẫy súng”**, với “Lênh Đênh”**, Lưu Na
đã làm tròn vai trò kẻ sống sót của thế hệ mình. Người đương thời, hay người
đời sau, khi mở những trang sách của “Lênh Đênh”, là mở những trang đời đầy bất
trắc của một thế hệ vừa chớm bám rễ trên mảnh đất quê nhà thì cơn bão thời cuộc
đã thổi họ bay đi rất xa, xa đến độ không có nẻo quay về(?).
T.Vấn
*Những đoạn in nghiêng,
trong ngoặc kép, được trích từ “Lênh Đênh” của Lưu Na.
**Ở đây, người viết
không hề có ý định so sánh các tác giả hay tác phẩm trên phương diện văn
chương. Trước, trong và sau cuộc chiến Quốc Cộng, những trang sử của đất nước
đã ghi dấu ấn rất đậm lên mỗi thế hệ tiêu biểu cho mỗi giai đoạn nhiễu nhương
mà họ đã sống qua. Thế nên, việc nhắc đến các tác giả, các tác phẩm trong bài
tựa này chỉ nhằm vào bối cảnh lịch sử của nội dung các tác phẩm và thời điểm
sống của các tác giả, qua cái nhìn chủ quan của người viết.(T.Vấn)
No comments:
Post a Comment