Nguyễn
Thị Thảo An
Khung cửa. Tranh Đinh
Cường
Yết đế, yết đế, ba la yết
đế, ba la tăng yết đế…
“Đi. Đi qua. Đi qua nữa.
Đi qua nữa. Nữa,…”
Bát Nhã Ba La Mật Đa
Hôm
đó là một ngày đẹp trời. Nắng vàng hanh và trên cao mây trắng trôi lang thang kết
thành từng mảng lớn. Anh ngồi trước sân, lơ đễnh ngắm giàn mướp vừa thả xuống
vài trái. Mướp non, trái thon nhỏ, giống như những ngón tay xanh nõn trỏ xuống
đất. Dưới giàn, mấy con ong vo ve lượn lờ quanh những búp vàng mới hé. Gió phơn
phớt mát da. Ngọn gió Hè thơm thơm mùi cỏ cháy. Anh nhắp một ngụm cà phê. Hương
vị tan loãng ngấm trong miệng tràn lên ký ức. Cũng trên cánh đồng trước nhà,
đám cỏ gà này và tuổi thơ anh cùng lớn. Đám cỏ, anh có cảm tưởng cũng là đám cỏ
cũ, thân thiết ngày nào. Và trăng sao, cũng trong vòm trời này, vẫn đứng nguyên
ở đó. Những tối khuya trốn ngủ, anh vùng chạy khỏi những trang sách đang đọc dở,
thả mình trên cánh đồng này, ngước nhìn nghìn sao lả tả. Đêm lấp lánh rơi xuống
trong anh. Rơi. Rơi mãi. Bây giờ thì tóc anh điểm trắng. Anh tin, đó là những bụi
sao trời còn sót lại. Bất giác, anh định đưa tay phủi phủi mấy ngọn tóc lòa
xòa, nhưng mấy ngón tay cứ lóng cóng thèm quen một điếu thuốc.
Gần
trưa, mặt trời bắt đầu đứng bóng. Mặt đường bốc hơi. Đất đá, sỏi cát… bỗng mờ
hoặc, lung linh như ảo giác. Con đường hình như đang mềm ra, ngoặt ngoẹo cố giữ
cho còn là một đường thẳng.
Cả
ngày hôm đó, hình ảnh ngay đơ của một vạch thẳng: thẳng đứng, thẳng ngang, thẳng
xiên ám ảnh anh suốt. Làm thế nào để sống giữ mình như là một đường thẳng? Bữa
cơm tối xong, anh vẫn còn loay hoay với chiếc đũa trong tay.
Tám
giờ tối, một chiếc SUV xịch đỗ trước ngõ. Một tốp công an áo vàng có vũ trang
nhảy xuống xe, hối hả tràn vào nhà. Họ hỏi tên anh. Một người ra dáng chỉ huy
móc trong túi tờ lệnh, hấp tấp đọc. Anh sửng sốt với tội danh bị bắt. “Tuyên
truyền chống phá thành quả cách mạng. Âm mưu lật đổ nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Anh định cãi. Người công an chỉ huy gấp tờ lệnh làm tư bỏ vô túi, dứt khoát bảo,
mọi ý kiến về cơ quan sẽ giải quyết. Họ xét nhà. Thực ra, từ sau năm 75 qua mấy
lần khám, căn nhà đã trống hoác từ lâu, nhìn quanh cũng không có gì để khám. Một
vài cuốn vở không có chữ để trên góc bàn, kê sát vách. Một cây viết bi chảy mực
gác trên mẩu giấy. Một hai người đi loanh hoanh, rờ mó cho có lệ. Họ liếc vô buồng,
căn buồng ngăn nắp, trống huơ. Họ bước ra, cho phép anh thu xếp vài thứ vật dụng
quần áo.
Khi
đi ngang qua cửa buồng, anh nghe được hơi thở run rẩy của vợ, tiếng tim đập
thình thịch cơ hồ muốn vọt khỏi lồng ngực. Đôi mắt ngó anh thất thần, chị lạc
giọng hỏi, “Bây giờ, mình phải làm gì đây anh?”. Anh cũng nhỏ giọng, thầm thì,
“Cứ cho nhiều người biết. Càng nhiều, càng tốt”.
Những
người công an bẻ tay anh, còng quặp sau lưng. Hai người cặp tay anh đi ra xe.
Trời tối, hai bên đường đông nghịt, những người hiếu kỳ dạt vô lề. Anh cố tìm
ra một gương mặt quen. Nhưng chịu. Ngọn đèn đường tắt ngúm, bóng tối đã bao
trùm. Anh ngoái nhìn căn nhà của mình. Mắt anh mở lớn như muốn thu hết hình ảnh
ấm cúng thân thương một lần cuối. Có phải đây là lần cuối? Có thể lắm. Mọi chuyến
đi của anh đều là định mệnh. Mắt anh nóng hổi. Chuyện bị bắt lại lâu nay anh vẫn
nghĩ tới. Tin đồn râm ran trong giới bạn bè mấy ngày nay. Nhưng đó là tin đồn.
Điều bất ngờ nó tới với anh, mà lại tới quá sớm. Anh hầu như chưa chuẩn bị gì cả.
Đột nhiên anh cảm thấy hối hận, tự trách. Đầu óc anh lan man loáng thoáng một
vài địa chỉ quen. Anh tự rà lại mình, anh chẳng làm gì sai. Từ khi tù về, anh vẫn
răm rắp tuân theo mọi quy định quản chế của địa phương. Không vắng nhà, không tụ
tập bè bạn, không tuyên bố một điều gì, cũng không viết ra một câu thơ nào.
Thơ, anh làm trong đầu, viết trong đầu, người ta không thể tìm ra chứng cớ. Vậy,
tại sao anh bị bắt? Cả trăm câu hỏi lảng vảng nhảy múa trong tích tắc. Khi chiếc
xe lăn bánh, anh cố ngoái đầu nhìn lại. Có bóng người chạy lúp xúp theo khi chiếc
xe lăn bánh. Chắc chắn, đó là vợ con anh.
Đoạn
đường từ nhà anh tới trại biệt giam 3C Tôn Đức Thắng không bao xa. Đường sá Sài
Gòn quen thuộc như trong lòng bàn tay. Nhưng chiếc xe công an cứ chạy vòng vo
như nhằm đánh lạc hướng, họ định tung hỏa mù hay tránh những bất trắc nào đó.
Xe chạy, mắt anh nhấp nhổm nhìn quang cảnh hai bên đường. Bây giờ là thời đổi mới.
Buổi tối, thành phố sáng choang, tiếng nhạc xập xình phát ra từ những quán cà
phê ôm. Anh vẩn vơ hy vọng, ước chi có một người qua đường nào đó thấy anh. Xe
vẫn chạy lòng vòng. Anh cố gắng phác họa bản đồ tưởng tượng theo đường xe lăn.
Tim anh nhói khi nghĩ tới những trại tù, những mùa đông dài trôi nổi trên những
núi rừng miền Bắc. Giờ này, chắc là những lán trại không còn ai. Những bạn tù
xưa, kẻ vượt thoát, người trôi dạt lây lất sống qua ngày. Cầu trời anh không bị
bắt đi xa, hay ít nhất trong thời gian bị giam anh vẫn còn đâu đó trong thành
phố. Còn ở đây, còn hy vọng. Ôi, cái thành phố của anh!
Mười
Một giờ tối, xe dừng lại trại 3C Tôn Đức Thắng. Hơn hai tiếng đồng hồ quanh co
trên đường phố, anh chuẩn bị trong đầu cả chục kiểu thẩm vấn, điều tra. Sẵn
sàng tranh biện những cáo buộc, áp đặt. Anh tự nghĩ, điều chứng minh duy nhất
là họ không có bằng cớ. Bởi vì, bấy lâu anh chẳng làm gì cả. Mà trước đó thì
anh cũng chẳng làm gì. Cả cuộc đời anh chỉ muốn đọc sách và làm thơ. Sách, anh
đã ngưng đọc.Và thơ, chỉ làm ở trong đầu. Vậy cớ gì họ bắt? Dự kiến những tình
huống tồi tệ nhất có thể xảy ra. Họ muốn thủ tiêu anh? Điều đó dễ ợt mà không cần
phải bắt bớ.
Nửa
đêm, họ lôi anh đi qua những dãy hành lang dài và hẹp. Xuống vài bậc thang, rồi
tống anh vô căn xà lim tối ám. Cánh cửa sắt bít bùng đóng sầm. Tiếng sắt nghiến
ken két để lại một âm thanh khô và lạnh. Một mùi hôi ẩm trộn lẫn những mùi khai
nồng nặc đập vào mũi. Anh nín mũi và tập thở bằng miệng để quen mùi. Bắt đầu định
thần, anh ngồi xuống quan sát. Căn khám nhỏ xíu. Đúng ra nó là phòng biệt giam
cho những tội phạm nguy hiểm. Bốn bức tường xám ngoẹt. Trần thấp. Trên có một
bóng đèn mù mù, ánh sáng không đủ để soi đường. Mấy con thiêu thân bay vo ve,
bóng động đậy bám vào ánh đèn.
Thời
gian tích tắc trôi qua từng giây một. Anh dựa lưng vào tường, tay ôm túi đồ vào
lòng để giữ một chút hơi ấm. Thời gian trôi qua lâu, rất lâu… Anh nhắm mắt, cố
dỗ giấc ngủ. Mắt đã mỏi, tay chân rã rời, anh cần ngủ một giấc để lấy sức. Ngày
mai sẽ là một ngày căng thẳng. Mắt nhắm, nhưng anh “thấy” rõ mồn một quang cảnh
thẩm vấn. Thần kinh anh căng cứng như một sợi đàn.
Hình
như anh chợp mắt được mấy phút thì tỉnh dậy. Có tiếng xe chạy. Tiếng động cơ
xình xịch nổ. Tiếng bánh xe nghiến trên đường phố. Tiếng bước chân lẹp xẹp. Tiếng
dép kéo lê. Rồi tiếng người. Những tiếng nói xa xôi, âm vọng đâu đó. Thi thoảng,
anh nghe như không thật. Có thể đó là tiếng nói từ trong trí tưởng. Mà cũng có
thể đó là tiếng rao của người hàng xóm ngoài ngõ nhà anh mỗi sáng. Anh lắc đầu,
lắc mạnh như thể muốn hất văng những tưởng tượng bám rễ trong ký ức. Tiếng động
phát từ trên cao không phải ngang mặt đất chỗ anh đặt chân đứng. Anh sực nhớ những
bậc thang dẫn xuống xà lim này. Đích thực anh đang ở dưới mặt đất. Anh bị giam
trong căn phòng này. Phòng biệt giam? Nó không hẳn là một căn phòng. Chu vi nhỏ
xíu, nền tráng xi-măng cũ kỹ, bốn bề kín mít. Mặt trước có một cánh cửa bằng sắt
dầy, có một ô cửa nhỏ vừa bằng nắm tay cài then bên ngoài để đưa cơm nước. Căn
phòng hầm ẩm mốc, thông thương với thế giới bên ngoài chỉ bằng một khe cửa. Anh
phát hiện ra khe cửa khi trời sáng. Một đường kẽ dưới cánh cửa tù hở với mặt đất
chừng khoảng một đốt tay. Ánh sáng rực rỡ vạch nên một đường thẳng nằm ngang
cũng ở bên ngoài.
Qua
khe cửa, anh phát giác ra nhiều thứ không thuộc về thế giới bên ngoài. Ngày hay
đêm, căn phòng vẫn tối ám. Ánh đèn tù mù trên trần chỉ đủ cháy đỏ tim, chứng
minh nó chưa tắt. Mấy con thiêu thân vẫn gắng sức bay lòng vòng không biết trời
đã sáng. Anh đưa tay lần mò trên tường tìm chữ viết. Có thể trong số bạn bè anh
có người đã từng bị giam ở đây. Hoặc giả, bất kỳ ai, bất cứ một cái tên nào, của
ta hay của địch. Chỗ này từng là nơi giam những người tình báo hoạt động nội
thành. Những dòng chữ của họ đâu. Trại 3C này anh không lạ, trước đây anh đã từng
ra vô và làm việc ở đây. Nhưng chưa bao giờ anh ngờ mình bị trở lại với thân phận
một người tù. Anh thở dài, nuốt nước miếng, cổ họng khô khốc. Anh đưa tay gõ
gõ. Âm thanh như đọng lại trong bức tường. Không có tiếng phản hồi. Những miếng
sơn mới khô rơi lả tả. Anh lấy móng tay cào gỡ. Chữ đâu? Anh mở lớn mắt tìm.
“… Ta nhìn lên những
dòng chữ trên tường
Viết bằng gạch, bằng
than và hình như bằng cả máu
Những phẫn nộ, quyết
tâm, nguyện cầu, ký thác, than van,
Ngày tháng năm, tên họ…
Như những nỗ lực tuyệt
cùng lưu hậu bản thân
Đang khốc liệt đương
đầu những bất trắc dập xóa,
Như những mưu toan vô
vọng ra khỏi chính mình,
Trốn chạy dày vò
Của những người ở trước
Nay về đâu?
Ta cũng hình dung sau
những lớp cáo chung vôi sơn chồng cộm,
Những lời lẽ tối tăm
tương tự
Cất lên từ những thời
thế đã đi qua.
Căn phòng này hồi trước
nhốt Việt Cộng,
Bây giờ nhốt phản động…
Lịch sử đổi phiên người
gác ngục…”
Anh
cúi mình, ghé sát mắt qua khe cửa. Có nhiều tiếng chân đang đi tới. Anh ngồi bật
dậy. Tiếng chân ngừng trước cửa phòng. Tiếng khóa lách cách. Tiếng rút then. Cửa
bật ra. Cái vạch thẳng ngang dưới đất mở thành hình tam giác. Ánh sáng lùa vào.
Anh nheo mắt vì chói. Người ta gọi anh đi thẩm vấn. Anh vuốt sơ quần áo, bước
ra ngoài. Đứng bên ngoài anh mới thấy. Quả, phòng biệt giam là căn tầng hầm,
hơn nửa nằm sâu dưới đất. Hèn chi, anh nghe tiếng động, tiếng người đi lại ở
trên đầu.
Anh
đi theo hai người mặc sắc phục. Bây giờ đã là trưa, không phải sáng. Vậy mà
trong căn phòng đó anh cứ ngỡ trời mới sáng. Mặt trời ngay trên đỉnh đầu. Anh đạp
lên bóng mình mà đi. Anh đi chầm chậm, cố kéo dài thời gian để thở. Không khí
trên này hình như loãng hơn, trong hơn và thơm hơn. Anh tham lam hít những hơi
thật sâu để lùa oxy đầy nhóc hai buồng phổi.
Khu
chỉ huy nằm bên trái. Họ đưa anh vào một căn phòng. Căn phòng này trước đây anh
đã từng vô. Anh nhìn bàn ghế, đồ vật. Chịu, không thể nhận ra. Cách trần thiết
chói chang bằng một màu đỏ. Lá cờ, khẩu hiệu, khung hình… hệt như văn phòng của
những ủy ban phường.
Ban
thẩm vấn gồm ba người. Một mặc quần áo dân sự, mắt đeo kính trắng, trông giống
cán bộ văn hóa. Hai người kia mặc sắc phục. Họ kéo ghế, mời anh ngồi. “Cán bộ
văn hóa” chìa ra một gói Hoa Mai đang hút dở, mời. Một người khác rót trà, đẩy cái
ly trước mặt anh.
“Đêm
qua, anh ngủ ngon chứ?”. “Cán bộ văn hóa” hỏi.
Anh
nhắp một ngụm trà. Rồi ngụm nữa. Anh phát giác, cổ họng khô kinh khủng. Có uống
hết một bình trà kia may ra mới đỡ khát.
“Tôi
bị bắt vì tội gì?”. Anh hỏi thẳng.
“Ố
kìa, anh không biết sao?”. Tên đeo kính nhếch mép, rút từ hộc bàn tờ lệnh bắt
giam. Hắn đọc. Anh ngạc nhiên, đây là tờ lệnh mới, không phải là tờ hôm qua.
“Tội
danh: làm thơ mạ lỵ, phỉ báng, chỉ trích Đảng và nhà nước”. Hắn rút trong hộc
bàn một tờ giấy học trò chép tay. Miếng giấy nhàu nát, những dòng thơ viết vội.
“Ta nhặt từng trang
sách rách toang
Đứa ngu đã xé vứt ra
đường.
Ta gom từng hạt cây
luân lạc,
Mong mỏi gầy lên một
địa đàng.
… Bao giờ ta trở về
dương thế,
Sống đáng vinh danh lại
kiếp người”
“Ngu?
Anh chửi ai ngu?”. Hắn lừ mắt nhìn anh.
“Đứa
nào xé sách, đứa đó ngu”. Anh nói. “Lịch sử xưa nay chỉ có những kẻ bạo ngược
như Tần Thủy Hoàng mới đốt sách, chôn học trò. Không phải sao?”.
Hắn
đằng hắng lấy giọng, tảng lờ lái sang chuyện khác.
“Tội
danh 2: làm thơ tuyên truyền chống phá chủ trương chính sách nhà nước”.
“Sai.
Cáo buộc vô căn cứ”. Anh phản đối, “Tôi không làm thơ tuyên truyền. Cũng không
có câu nào chống phá chính sách chủ trương nhà nước”.
“Còn
không ư?”. Tên kính trắng lôi ra một trang báo ngoài nước, chỉ vào một bài thơ.
“Bằng chứng đây. Chế độ luôn bắt đúng người, đúng tội”.
Cầm
bài thơ đã được cắt ra từ một trang báo hải ngoại, tay anh run, bụng sướng rơn.
Bài thơ anh làm dạo mới ra tù không biết ai truyền ra nước ngoài, đã đăng khắp
nơi.
“Bài
thơ này tôi chỉ nói lên cảm xúc của chính mình. Trong 124 câu, chẳng có câu nào
tuyên truyền chống chính sách nhà nước”. Anh nói quả quyết.
“Cán
bộ văn hóa cười khẩy, giật lấy bài thơ trong tay anh, chậm rãi đọc từng chữ.
“Mười năm, mặt xạm soi
khe nước,
Ta hóa thân thành vượn
cổ sơ”.
“Chế
độ đã khoan hồng, thả anh ra. Vậy mà anh nhạo báng, chỉ trích chế độ đối xử khắc
nghiệt biến anh thành vượn ư?”.
Anh
bật cười thầm, “Tôi không chỉ trích hay nhạo báng ai cả. Trong tù, tôi thấy
mình giống vượn. Tôi nghĩ sao viết vậy. Có thế thôi”.
“Anh
làm thơ phát tán ra nước ngoài. Liên lạc với ngoại quốc, thư từ chứng cớ chúng
tôi đều có cả”. Tên kính trắng nói, “Anh hãy thành thật khai báo, sẽ được khoan
hồng. Anh liên lạc với những ai?”.
Họ
đặt một tờ giấy trắng và cây bút bi Hồng Hà ngay trước mặt. “Anh khai tất cả
vào đây”.
“Bạn
bè viết thư gửi tôi, tôi không cấm họ được. Tôi không liên lạc với ai. Thư từ gửi
tới các anh tịch thu cả. Tôi không còn gì để khai”.
“Hừm.
Anh ngoan cố hả?”. Tên đeo kính đập bàn, lớn tiếng đe, “Làm thơ chống chế độ.
Liên lạc hoạt động gián điệp với nước ngoài. Âm mưu lật đổ nhà nước. Ba tội
danh này, tội nào cũng đụng tới khung tử hình. Anh không đủ mạng để đền tội
đâu”.
Anh
giận dữ, la lớn, “Tử hình? Muốn tử hình, phải đưa tôi ra tòa. Các anh không có
quyền hành xử bằng luật rừng”.
Một
tốp công an lôi anh ra ngoài. Anh còn ngoái cổ, thách họ ra tòa.
Ra
tòa. Anh tin, anh đủ sức tự bào chữa. Phải cố đòi ra tòa cho được. Không phải
anh hy vọng ở tòa án của họ có một thứ gì khác. Nhưng ra tòa, anh tin anh có cơ
hội. Cái cơ hội không bị thủ tiêu lặng lẽ.
Trở
về căn phòng biệt giam, niềm tin lập tức biến mất. Bên ngoài nắng còn gay gắt,
căn phòng vẫn tối mù mù. Nó giống như một thứ hầm mộ. Chui xuống đây, mọi tiếng
động ngoài đời trở thành một âm hư xa lắc. Có thể một tối nào tùy thích, dăm ba
tên tràn xuống. Họ có thể bắn anh, đâm anh, siết cổ, đè đổ thuốc độc. Một cái
chết không gây tiếng động. Rồi lấp đất lại. Nơi đây sẽ là huyệt mộ của anh. Ai
hay?
Qua
vài lần thẩm vấn nữa, anh chợt hiểu. Ban thẩm vấn không phải đang điều tra. Họ
tìm cách chụp mũ và cà khịa đủ thứ chuyện. Trong khi anh gân cổ tranh cãi bở
hơi thì họ nhếch mép cười. Những lý luận, nguyên tắc, quy ước, luật lệ… đều vô
ích. Họ nghe anh như vịt nghe sấm. Óc họ đặc nên không còn nghe ra một lý lẽ
nào khác. Hay anh đang nói với những người không cùng tiếng nói. Khi nhận ra điều
này anh ngưng bặt. Lời nói bỗng vô ích. Trước mặt họ, anh đã là một người không
tồn tại.
“… Tôi giựt giành đổ
máu với tôi
Từng chữ một
Những tên cai ngục
Ngôn ngữ bất đồng.
Với thứ linh hồn quốc
cấm,
Tôi tù tội chung
thân…”.
Một
hai lần sau, anh dùng chính cách của họ để đối phó. Anh kể lể những chuyện trên
trời dưới đất. Và uống trà, uống rất nhiều. Khi những cuộc thẩm vấn đã trở nên
vô bổ thì họ ngưng.
Mỗi
ngày qua. Mỗi tuần qua. Mỗi tháng qua. Hầm mộ tối tăm như cổ mộ. Thời gian ở
đây như đọng lại. Không khí đặc quánh. Mọi tiếng động đã trở nên huyễn hoặc. Thế
giới sinh động đang ở trên kia, loài người như ở một cõi xa xăm nào khác. Còn
anh, mỗi ngày một đi sâu xuống địa huyệt. Chính anh, đã lâu lắm rồi anh cũng
chưa nhìn thấy mình. Anh đưa tay sờ mặt, râu tóc lởm chởm, da sần sùi, mắt sâu
hoắm, môi nứt nẻ. Anh tưởng tượng mình giống như những người tiền sử, tóc cứng
chân trần. Một xác chết còn suy nghĩ. Một xác ướp. Một Pharaong đang sống lại
không ai hay. Đôi khi ngẫm nghĩ anh lại tự trách, trước đây mình đã lãng phí
quá nhiều thời gian cho những việc không đâu. Anh đã làm gì trong lúc tự do?
Hình như phần lớn anh chẳng làm gì cả. Anh không biết quý thời gian của chính
mình. Bây giờ thì đã hết. Có lẽ anh sẽ kiệt sức và chết ở đây. Bốn bề vây hãm.
Bỗng dưng anh rớt nước mắt. Những giọt nước mắt nóng hôi hổi. Anh tự hứa với
lòng, sau này nếu ra khỏi, anh sẽ dùng thời gian còn lại để thở, thở cho hết
cái thứ không khí thơm tho trong lành ngoài đời. Anh sẽ đi nhiều hơn, sẽ nhìn
nhiều hơn. Anh chợt ngộ ra, được đứng tự do ở ngoài trời thôi, cũng đã là một
ân sủng của Tạo Hóa. Nghĩ lại, đột nhiên anh tự giận chính mình.
Hình
như đã lâu lắm, lâu lắm, anh có một thói quen: gõ tay lên tường. Sáng, trưa,
chiều, tối. Rảnh, anh gõ. Thức, anh gõ. Nhớ ra, anh gõ.
“…Ta ngồi dậy
Và như một thói tật,
Gõ gõ hỏi han
Hai bên tường tả hữu.
Có ai không?
Không có ai sao?
Ta khắc khoải chờ
nghe
Những tiếng động của
người,
Tiếng động nào bất kể,
…
Bây giờ là mấy giờ?
Ta ước lượng thời
gian
Như mò tìm một khe hở
bất ngờ
Trên trường thành dằng
dặc những thiên thu…”
Bốn
bề vắng ngắt. Một sự im lặng đặc sệt. Bây giờ nỗi ao ước thèm nghe tiếng người
lớn hơn tất cả. Anh khan giọng cất tiếng kêu, để lắng nghe tiếng của chính
mình. Cổ anh nghẹn, âm thanh ú ớ trong cuống họng. Anh đằng hắng, lấy giọng, định
đọc một câu thơ. Nhưng tiếng nói không phát được. Anh phát hoảng khi chợt nhớ,
hèn chi, trong những truyện đường rừng, người ta hay mô tả những sơn nhân quên
tiếng nói của mình. Trại biệt giam 3C khá rộng, trại không dành riêng để nhốt
chỉ mỗi một mình anh. Mãi về sau, anh nghiệm ra, người ta giam anh bằng bốn bức
tường không khí. Cố cách ly anh với thế giới loài người. Không phải ngẫu nhiên
mà họ lấy vôi sơn chồng chịt bốn bề. Không đọc được chữ. Không nghe tiếng người.
Không tiếp xúc với ai. Họ không phải chỉ giam thân xác anh. Họ muốn cùm kín tư
tưởng anh, triệt tiêu mọi cảm xúc. Anh như bị lưu đày ra giữa khoảng không vô tận,
đầu óc chới với không tìm ra điểm tựa. Người ta khiến anh sống đời sống thực vật,
không còn suy nghĩ. Mục đích cuối cùng để anh không thể làm thơ.
Mùa
mưa tới. Anh ngửi mùi không khí ẩm ướt. Trên kia, tiếng trời đất chuyển động.
Gió lồng lộng thổi. Và mưa, bắt đầu tí tách. Nửa đêm có tiếng ếch nhái, ễnh
ương hòa lẫn tạo thành một bản trường ca bất tận. Anh ngồi bó gối, kiểu ngồi bất
động như đã từng ngồi đây suốt cả trăm năm. Mấy lúc gần đây anh chợt liên tưởng
đến cái chết. Khi chết, mình ở trong tư thế nào. Chết ngồi bó gối, hay xác bỏ
cong queo. Suy nghĩ vẩn vơ, anh nhìn qua khe cửa, lũ gián, chuột lội mưa lóp
ngóp bò vô.
“…Ta nhìn theo
Mấy con thằn lằn uể oải,
Lũ gián lào xào,
Con nhện bỏ trống lưới
giăng xong,
Bầy chuột phóng chạy…”.
Anh
cầm que nghịch chơi, khều con gián. Con gián khựng mình lại, rồi quày quả quay
đầu. Chặn đầu này nó quay hướng khác. Đường đi trăm ngả. Còn người? Sao lẩn quẩn
có một sự lựa chọn. Chết trong này hay sống ở ngoài kia? Thậm chí anh không có
tự do như một con gián.Tự nhiên ra vào qua khe cửa. Còn anh, mỗi ngày chờ đợi
người ta mở cửa, như chờ đợi một điều gì mới mẻ, lớn lao.
“…Bao giờ cửa mở?
Bao giờ?
Lịch sử dường như đã
ngất lả
Sau những liên hồi vật
vã điên cuồng…”.
Mùa
mưa dứt. Trời nổi gió. Anh áp tai xuống đất mà nghe gió quyện lên trời. Cuối
năm, thời tiết thay đổi bất thường. Thân nhiệt anh tăng dần. Đầu nặng trịch,
tay chân rã rời. Nửa đêm anh lên cơn sốt. Trong cơn mê sảng, anh nghe được còi
tàu rúc về sáng. Tiếng rúc thê thiết như tiếng con thú trúng thương. Anh nhớ những
con tàu quay đầu ra biển ngày xưa. Anh đứng trên boong, và vẫy. Trên bến, từng
người tình trông theo chào biệt. Nhưng mà trong mơ, anh kêu lảm nhảm. Con tàu
lướt sóng Trường Sa, rồi cất mình bay lên khỏi mặt nước. Anh ngước đầu nhìn. Đột
nhiên con tàu rùng mình biến thành chiếc trực thăng. Ngó xuống dưới, “Bờ bãi hỗn
mang, dòng bát ngát,” Phá Tam Giang, Phá Tam Giang đây mà. Người tình áo trắng
của anh đâu? “Chiếc trực thăng bay là mặt nước”. Một tà áo lụa phất phơ. Anh cất
tiếng kêu. Bóng trắng quay lại. Gương mặt thần chết với hai lỗ mắt sâu hoắm,
giơ lưỡi hái, phá ra cười.
Có
tiếng người đẩy then, mở ô cửa đưa cơm kêu vói. “Này, này. Dậy uống thuốc”. Anh
lừ đừ chống tay, rồi ngã sập. Cơm chiều qua, anh bỏ. Cơm trưa nay, cộng với hai
viên thuốc, còn nguyên.
Cả
ngày hôm đó, anh nằm bất động. Lúc tỉnh, lúc mê, lúc mơ màng. Không lúc nào như
lúc này, đầu óc anh dính chặt với cái chết. Chết bây giờ, dễ như lật một trang
sách. Trang sách nào? Đời anh đã nghe qua biết bao tiếng lật những trang sách.
Cái chết của những người lính. Của những người tù. Của bạn bè. Với anh là cái
chết của một thi sĩ. Anh còn nhớ trong vở kịch Cuộc Chiến Thành Troy1 của Jean
Giraudoux2 .Màn cuối, khi quân lính tràn vào thành, kẻ chiến thắng giơ cao ngọn
giáo đâm xuyên qua ngực người thi sĩ cuối cùng của thành Troy. “Thi sĩ thành
Troy đã chết. Lời nói thuộc về thi sĩ Hy Lạp.”3 .Cái chết của người thi sĩ
trong vở kịch trở thành một nỗi ray rứt bây giờ đang chực nghiền nát anh. Định
mệnh ư? Chẳng phải anh đã từng ước ao được chứng kiến cái chết của chính mình.
Với ước mơ, mình không phải là thi sĩ cuối cùng phe thất thế. Cái chết của anh,
ôi mong sao chỉ là sự ra đi.
“…
Ra đi như một bình minh lạ
Trên
kỷ nguyên chưa kịp hiện hình.
Thi
sĩ Bắc, Nam đều chết rạp.
Ba
trăm năm lịch sử làm thinh…”.
Những
đêm liền anh mê sảng. Hồn phách lửng lơ ra vào giữa sống và chết.
Nếu
chết đi. Anh đã quay lưng với cuộc sống. Như có lần anh đã quay đi. Nhưng mà ở
phía nào? Trong cơn mơ anh loay hoay không định được hướng. Lòng anh nặng như
núi. Hơi thở vẫn tự nhiên thổi vào hai buồng phổi. Tim vẫn đập, từng nhịp một
như được điều khiển từ đâu. Có một điều gì đó khiến anh sống, vực anh nửa đêm đứng
dậy.
“…Tháng tháng năm
năm,
Lòng như núi nặng.
Ta đứng lên,
Đi tới đi lui
Trăm lượt nghìn lần
Như một hồn ma cổ đại
Trong hầm mộ muôn đời
Vì một đôi điều sinh
thời chưa thỏa nguyện.
Ta cố nhớ giấc mơ
Nhưng rồi không nhớ
được.
Ta nằm xuống,
Dỗ mình hãy cố ngủ,
Tập quen dần với giấc
thiên thu”.
Cuối
cùng, cái chết vẫn chưa đến. Cuộc sống vẫn thoi thóp chờ anh ở phía trước. Mà
cái chết cũng chưa bỏ hẳn. Nó như đôi bạn đồng hành. Như chân phải, chân trái,
đi song song mà rượt đuổi nhau. Như anh đã từng quay lưng với thực tại, với người
yêu.
“…Sao đôi ta không
cùng quay lưng đi
Đến với rừng xanh, với
núi đỏ,
Vùi trọn giấc hoành
môn,
Không buồn trở dậy nữa.
Đôi khi hạnh phúc ngợp
trời cũng chỉ là một cái buông tay
Nhẹ nhàng không nghĩ
ngợi.
Ờ, sao chẳng là cặp
tình nhân thứ nhất trên trần gian
Sẵn sàng đổi bỏ cả
vĩnh cửu,
Đạp vô thường đổ nát
mà đi?
Ờ, sao chẳng ở lại
đây luôn
Với rừng xanh, với
núi đỏ,
Đơn độc tột cùng
Như con thú đã già,
Chọn lấy cho mình một
cách sống,
Chọn lấy cho mình một
cách chết?…”.
Anh
nghĩ đến Adam và Eva. Trước tình yêu, họ đã quyết định đổi bỏ cả cuộc sống vĩnh
cửu, vô thường trong Địa Đàng. Sống u mê sao bằng chết trong tỉnh thức? Adam,
Eva đã quyết định cho số phận của cả nhân loại. Con người từ đó đã thoát ra
vòng kềm tỏa của Thượng Đế để tự định đoạt số phận của mình. Sống và Chết. Còn
anh? Sao anh lại để số phận mình trong tay người khác?
Anh
quyết định, anh phải sống. Anh còn nhiều việc phải làm. Những bài thơ chưa viết.
Những bạn bè chưa gặp. Những cuộc tình chưa yêu…
Hôm
đó là ngày thứ mấy? Anh cũng không nhớ ra. Điều đó, chẳng còn quan trọng nữa.
Sau cơn bệnh, anh tỉnh hẳn. Anh thường ép đầu sát đất để hé mắt qua khe cửa. Một
vệt đất sáng, tối, đậm, nhạt khác nhau giúp anh ước đoán thời khắc. Nó không
làm anh thấy được thế giới bên ngoài, nhưng tâm anh thấy. Thần trí anh xuyên suốt
qua bốn bức tường. Tư tưởng anh được tự do. Ký ức bay nhảy qua những miền không
gian rộng mở. Anh còn nhớ, những đêm trăng trên ngọn Hoàng Liên Sơn đã làm anh
bàng hoàng. Trăng đẹp lạ thường. Bóng rừng sáng rực dưới ánh sáng huyền hoặc của
trời đất. Anh run rẩy trong sự xúc động, choáng ngợp trước vẻ đẹp lớn lao dị
thường này. Trong phút chốc anh nhận ra mình như con chim núi trong câu thơ
“Nguyệt xuất kinh sơn điểu” của Vương Duy. Trên đầu anh, và dưới, dưới chân anh
nữa, vũ trụ bao la đang ôm ấp. Hàng triệu triệu vì sao lấp lánh. Và cả anh. Mỗi
con người ví như một thiên thạch, một hạt bụi nhỏ nhoi nào đó đang vận hành
theo quỹ đạo trong trời đất, và ngay của chính mình. Hạt- bụi- anh, tình cờ mà
ghé qua đây. Tạm trú trên đời. Sống thử kiếp người. Vinh nhục khổ đau, hay yêu
thương thù hận rồi cũng qua đi. Cuộc du hành đang còn ở phía trước, kể cả sau
cái chết.
“… Ta đến đây
Bờ bãi hỗn mang
Những di thể lên nấm
lên rêu
Của những gì một thuở
huy hoàng,
Làm khách tạm,
Những chiều hôm nhìn
lửa nhớ tiền thân.
Nào phải chỉ đêm nay
Mà hằng đêm
Mà mãi mãi,
Ta ngồi, đầu đẫm trắng
sao sa…
Nào phải chỉ đêm nay
Mà hằng đêm
Mà mãi mãi,
Lòng cời thao thức
sáng âm u…
Hành giả ơi,
Gà lay tỉnh một mé rừng
hư định…”.
Rạng
đông, trời đã dậy. Anh tưởng tượng mặt trời rải hồng trên bến cảng. Tiếng người
xôn xao văng vẳng với gió sông. Anh bỗng vui vì anh còn sống. Ít nhất là tới
hôm nay.
“… Trời dậy sáng
Như một lời nói mới.
Hồng loang đám ruộng
xa, hồng lên khóm tre cao,
Mặt trời xao xuyến mọc…
Ôi có hừng đông nào
chẳng làm ta muốn khóc?
Một ngày nữa xuống với
đời ta,
Vui biết mấy
Và cũng buồn biết mấy”.
Anh
nhìn những ngày “sống” trôi qua. Mỗi một ngày, mất một ngày. Mất vĩnh viễn.
Không ai bắt giữ được từng giây, từng phút đang trôi qua. Trong không gian tù
mù này, sự sống đang tuồn tuột vơi. Anh lắng nghe tiếng thở của mình. Ngày hao
hụt.
Bây
giờ, mỗi sáng anh ngồi dậy, nhìn qua khe cửa, đoán những bước chân đi tới. Anh
tin, mình từ một nơi nào đó. Anh ở đây. Và chờ đợi. Tù ngục này, cũng là một điểm
đến, một điểm dừng, một nơi phải đi qua. Một lúc nào đó cánh cửa này sẽ mở. Cho
anh tiếp tục cuộc hành trình.
“… Đời ta sáng mượn
ánh tàn dư
Đến từ một hành tinh
đã tắt nghỉ.
Cánh cửa lớn lao nào
Mở ra và đóng lại
Nhanh thật nhanh,
Tưởng chừng không
đóng mở.
Cánh cửa lớn lao nào
Mở ra và đóng lại
Kín như bưng,
Tưởng chừng không có
cửa.
Cánh cửa này, ta cũng
sẽ đi qua”.
Yết đế, yết đế, ba la
yết đế, ba la tăng yết đế…
“Đi. Đi qua. Đi qua nữa.
Đi qua nữa. Nữa,…”.
Nguyễn Thị Thảo An
15/7/2010
(Nguồn:
Văn Việt)
Chú
thích:
Những đoạn thơ chữ
nghiêng trong bài này được trích từ Thơ Tuyển Tô Thùy Yên xuất bản năm 1994 tại
USA. Xin chân thành cảm ơn nhà thơ Tô Thùy Yên đã cho phép được trích dẫn.
NTTA.
1.Tên vở kịch “La
guerre de Troie n’ aurait pas lieu”.
2. Jean Giraudoux là
kịch tác gia của Pháp (1882-1944), nổi tiếng với những vở bi kịch chiến tranh
như “La guerre de Troie n’aurait pas lieu”, Électre, Ondine, Sodom and
Gomorrah.
3. Le poète troien
est mort. La parole est au poète grec.
No comments:
Post a Comment