Lưu
Na
Bên kia sông. Tranh Đinh Cường
Vậy
là anh Lâm đã quyết đi Houston lập nghiệp.
Ngà không hiểu lập nghiệp là anh sẽ làm gì bởi vì nơi đây Ngà chả thấy
anh có nghề ngỗng gì, nhưng cũng là chuyện thường thôi, bởi Ngà nghĩ những người
như anh _ độc thân và không vướng bận với một trách nhiệm gì _ thì cứ tha hồ đi
ngang đi dọc, việc chi phải ở hoài một chỗ.
Vốn anh vẫn hằng đi theo bè bạn, theo một đám nào đó vài tháng nơi này
vài tháng nơi kia, thì phố Bôn sa cũng không nghĩa gì khoan nói chuyện xem nó
là một quê hương thứ hai. Dường như với
anh Lâm, khi đã rời bỏ quê hương thì kể như phiêu bạt cho tới chết, có lẽ anh sẽ
không bao giờ dừng lại một nơi nào quá lâu để lòng lưu luyến.
Lưu
luyến, hay là một điều gì khác Ngà không giải thích được. Những ngày đi loanh quanh chụp hình xem cảnh,
dường như nơi nào cũng đẩy cảm xúc của Ngà đến chỗ bàng hoàng. Đứng ở sườn đồi Yosemite nhìn xuống, không phải
chiều cao hay độ sâu làm mình sợ mà là màn sương, trắng biếc trong hơi lạnh đến
nỗi làm xanh mọi bức hình, gợi những kỳ bí khôn tan trong chuỗi dài năm
tháng. Sương có tự bao giờ và bao giờ sẽ
hết? Những cây thông cây hồng đại thụ
cao trăm thước sống mấy ngàn năm _ gió có làm chúng lạnh, mưa nắng có làm chúng
buồn, chúng bè bạn với ai và chúng có khổ đau?
Những câu hỏi vớ vẩn ấy cứ bám hoài theo óc, mà rồi khi đến những vùng cận
sa mạc khô cằn chỉ toàn cát đá Ngà vẫn không thoát khỏi hoang mang, bởi đất đá
cũng trơ lạnh ngàn năm dưới trời đêm tím ngắt trăng sao. Nhân thế chỉ là những bầy kiến đen đỏ loay
hoay trong kiếp đời ngắn như chớp mắt, chỉ là một đoạn mờ của một vòng vân nào
đó nơi thân hồng ngàn tuổi, sao anh Lâm sao Ngà mãi đau lòng khi mất một quê
hương? Đáng sợ hơn nữa là rất nhiều khi
đi trên phố lạ mà lại cứ thấy thấp thoáng hình ảnh quê nhà, tựa như ai đó chồng
những tấm phim trong lên nhau và rồi chỗ trùng lấp nổi cộm lên như một góc phố thân
quen đang hiện ra trước mắt. Những lúc ấy
Ngà thấy tim mình thắt lại, bởi khi nhớ chính là khi mình đã thực xa rồi. Càng đi cho biết đó biết đây càng mang vào
lòng nỗi ngậm ngùi, bởi bất cứ nơi đâu cũng có những hoang tàn bên cạnh nguy
nga, những nếp đời cao sang rực rỡ bên những kiếp sống bạc bẽo khổ đau. Dốc sâu núi thẳm, mỗi hòn đá gốc cây con đường
vô tận mịt mờ mình đi qua đều mang với nó thiên niên vạn kiếp và cũng chỉ dẫn đến
cái hoang lạnh của đất trời; Ngà hay bất cứ ai ai, kiếp nhân sinh có thực để sống
hay chỉ là ảo ảnh? Đứng nhìn thế giới
bao la nhiều lúc Ngà cảm như mình chỉ còn là công dân của nước địa cầu. Công dân địa cầu, Ngà cho đó là điều hết sức
cao sang và đang dần lấn chiếm tâm hồn Ngà, nhưng rồi Ngà vẫn phải ăn cơm, phải
chấm nước mắm, phải hát nhạc sến, phải mê cải lương, và không nghĩ mình sẽ dời
đổi chỗ ở bao giờ nữa cả bởi đi tới đâu cũng vẫn chẳng phải quê hương mình. Ý nghĩ tìm nơi khác sinh sống cho Ngà cảm tưởng
mình lại phải vượt biên, một việc quá sức tưởng tượng và chịu đựng của
Ngà. Kiến bò miệng chén.
Mai
anh Lâm lên đường, anh Võ nói Ngà có rảnh thì ghé chơi. Là hời hợt qua đường, nhưng tất cả mọi người
đều lần lượt xuất hiện: chị chủ báo, triệu phú layout, anh râu ria, anh Võ, con
Ngầu, và Ngà.
-Ngầu, thôi em theo
anh qua bên đó đi, ở đây hoài chán lắm. Anh
Lâm thủng thỉnh nói, Anh Võ và triệu phú layout cười cười. Ngà chăm chú chờ câu trả lời, nhưng con Ngầu không
nói chi, như giả điếc. Có vẻ mọi người
biết sẵn câu trả lời cho một điều bọn họ đã ngầm hiểu với nhau. Thế giới này xa lạ, sao Ngà lại có mặt nơi
này?
Anh
Lâm chỉ hai thùng cạc tông nơi góc phòng, nói với anh Võ:
-Ông giữ mấy thùng
sách này cho tui. Anh Võ khịt mũi,
-Sách
chứ có mẹ gì mà giữ.
-Thì cứ giữ cho tui, nếu ông coi không thích
cuốn nào hết thì bỏ, tự nhiên.
-Em
coi thử được không? Ngà hỏi.
-Ừ, lấy ra.
Ngà
mở thùng sách. Mùa Hè Đỏ Lửa, Tù Binh Và
Hòa Bình, Dọc Đường Số Một… Ngà ngước mắt
nhìn anh Lâm. Anh đọc những thứ sách
này? Anh luôn có vẻ thờ ơ như cuộc sống
trên mặt đất chỉ là chuyện vui chơi chốc lát, rất khó biết lòng anh nghĩ gì
thích gì vì anh luôn lặng im, cái lặng im nhàn nhạt không vướng bận suy tư
không buồn vui. Ngay cả chuyện uống anh
cũng uống một cách hững hờ không biết đã uống bao nhiêu và có uống nữa hay
thôi.
Ngà
ngồi bệt xuống thảm dựa vào tường dở những trang sách của một người không biết
mặt nhưng cái tên là một niềm hãnh diện thầm với riêng Ngà. Cộng sản có thể thắng cuộc chiến, có thể chiếm
tất cả, nhưng Cộng sản không lấy được nhân cách của những người tù ấy. Họ _
Khuất Duy Trác, Tô Thùy Yên, Phan Nhật Nam, thà tù kiên giam tới chết chứ không
bị khuất phục. Nếu còn một người tử tế Chúa sẽ không đổ lửa xuống Sodom… những dòng thánh kinh li ti trên trang giấy
mỏng Ngà đọc mỗi ngày mong dỗ giấc ngủ mong quên nỗi khốn cùng nói về một điều
khác, nhưng với Ngà ba người tù kiên gan ấy chính là những người tử tế cứu rỗi
cho cả một miền Nam. Họ là ai?
Tù
Binh và Hòa Bình đây đó kể lại những ngôn từ và trình tự của cộng sản mỗi buổi
họp. Ngà bật cười, hóa ra họ luôn như vậy,
hằng như vậy, và xã hội dần bị tẩy não bằng cách đó. Cuốn sách đã ra đời từ trước 75 nhưng Ngà
không bao giờ được biết, bởi hoàn cảnh cuộc sống nhưng cũng bởi Ba Má không ưa
những văn hóa phẩm chống Cộng cho đó là tuyên truyền. Đã sợ tuyên truyền của cộng sản từ ngoài Bắc
mà vào Nam lại còn nghe tuyên truyền sao cam!!!
Ngà đọc lướt lướt, biết mình chỉ có thể duyệt sơ qua nhưng cũng không thể
bỏ những cuốn sách ấy xuống ngay được.
Đây
một bài thơ trích tập Dạo Núi Mình Ta của Hà Thúc Sinh, cũng một ông lính.
NGHINH
ĐỊCH HÀNH
Giao thừa đâu mà vội
Hay khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
Mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
Cũng nhỏ bé trong đời
Có núi sông trong bụng
Mà bất lực hôm nay
Chiến chinh trời cũng sợ
Chỉ còn lại hai bên
Vội vàng chi cho cực
Cứ thong thả nghỉ đêm
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào
Nếu chú có cha mẹ
Ta chẳng những người thân
Còn mang thêm lắm nợ
Với rượu và gió trăng
Chú cứ ăn cho đủ
Mai chết sẽ chết no
Ta cũng cần đêm cuối
Từ giã gió trăng xưa.
Hay khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
Mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
Cũng nhỏ bé trong đời
Có núi sông trong bụng
Mà bất lực hôm nay
Chiến chinh trời cũng sợ
Chỉ còn lại hai bên
Vội vàng chi cho cực
Cứ thong thả nghỉ đêm
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào
Nếu chú có cha mẹ
Ta chẳng những người thân
Còn mang thêm lắm nợ
Với rượu và gió trăng
Chú cứ ăn cho đủ
Mai chết sẽ chết no
Ta cũng cần đêm cuối
Từ giã gió trăng xưa.
Hm,
hồi đó mấy ông lính ăn nói tự do ngon lành, sao họ bảo mình tay sai? Trong thùng còn rất nhiều truyện, thơ, và tạp
chí vàng ố. Ngà lật thêm một cuốn. “Một
ngày quá buồn, ngày-tháng-năm…,” chữ
ký, dấu tay, và vài ba hình vẽ nho nhỏ. “Sau quốc nạn đốt sách, bị bỏ tù, về sưu tập
lại. T.T., tháng, năm…” Ngà tần ngần.
Những cuốn sách ấy không chỉ mang hồn người viết mà còn mang cả một trời
kỷ niệm của người đọc, hình ảnh một xã hội đã qua. Có bí mật gì mà họ phải hủy sạch và có người
phải nhặt tìm? Thơ, truyện, văn, nghiên
cứu,… đủ mọi đề tài đủ mọi giọng gióng
tiếng với đời, sao gọi là đồi trụy? Ngày
xưa, những ngày xưa ấy, hóa ra là một khoảng mù mờ trong trí óc của Ngà, nên nỗi
bị người ta khinh khi chà đạp mà cũng còn mang với lòng một nỗi nghi ngại băn
khoăn. Ngà sẽ phải đọc cho bằng hết!!!
Căn
phòng bỗng lao xao ồn ào hẳn lên vì một người xuất hiện. Chị Lệ bước vào, ánh sáng cũng theo vào tỏa rực
căn mobile home ọp ẹp. Chị đẹp như một
công nương dù chỉ ăn mặc trang nhã.
-Thằng Võ tu chín kiếp
mới gặp được Lệ. Anh râu ria tuyên bố.
-Là Lệ tu mười tám kiếp
mới gặp được anh Võ.
Anh
Võ cười mỉm chi, niềm hãnh diện thỏa mãn như lớp hào quang tỏa ra. Các anh mỗi người một câu, trêu gẹo thán phục,
dóc lác um sùm như thể gặp hội long hoa.
Đứng kề bên, chị Lệ chỉ im lặng nhìn anh Võ say đắm. Đôi mắt to như hai hồ nước của chị nhìn anh
tha thiết tựa đang nói muôn lời yêu đương nồng cháy, cả thế gian dường không tồn
tại trong ánh mắt lánh đen. Tình yêu nào
nuôi ánh mắt ấy, của một người đàn bà qua tuổi 40 với vài đời tình dang dở? Ngà đoan chắc hết cả đời mình cũng không thể
biểu lộ được tình yêu qua ánh mắt như thế.
Ngà có thể yêu hết cả lòng, có thể liều lĩnh, có thể làm đủ chuyện trời
ơi, nhưng trước một cử tọa bao quanh mà tỏ niềm tha thiết thì, chịu. Duyên tình cứ thế qua đi dù Ngà không mong gì
hơn một mái ấm. Có lúc Ngà sợ, rằng có lẽ
cả đôi bên đều biết Ngà cam lòng và chỉ là sự cam lòng. Ngà sợ, rằng người ta chỉ thấy một nùi chỉ rối
trong đáy mắt Ngà.
Ngà
liếc ngang tìm xem Ngầu ở đâu, con nhỏ đang lúi húi sắp xếp bài vở gì đó như
không chú ý đến những gì xảy ra chung quanh.
Ngà có cảm tưởng thực ra nó chỉ muốn tránh cái hào quang của chị Lệ và
cái nhăng nhố của bọn đàn ông chung quanh, tránh tất cả, vì nó là nó _ một mình
một cõi không chung đụng cũng chẳng giao hòa.
Mọi
người í ới rủ nhau đi ăn, mừng anh Võ từ nay ấm cúng mừng chị Lệ “không gì hạnh phúc hơn được sum vầy cùng anh
và bạn hữu dưới ánh đèn vàng võ” nơi mái nhà của anh. Ngà thấy ngại ngần, một nỗi buồn dâng ứ kèm
thêm cái háo hức muốn ngốn hai thùng sách mà anh Lâm định giao cho anh Võ.
-Em có muốn lấy sách?
-Dạ,
được không anh Lâm?
-Được ngay, để anh mang ra xe cho.
Ngà
dứt khoát ra về, thầm muốn gọi bịnh nghỉ một vài ngày mà đọc cho hết mớ sách vừa
được thừa hưởng!!!
Đường
về nhà chỉ độ năm bảy phút mà hôm nay phải đi vòng vì lòng đường Bolsa chật cứng
người biểu tình. Ngà cũng muốn xà vào
xem có tìm thấy bố đứng trong đám biểu tình, nhưng biết đậu xe vào đâu và làm
sao tìm được một người giữa đám đông có lúc được cho là tới 35 ngàn người. Biểu tình không biết sẽ kéo dài bao lâu và đi
đến đâu, nhưng việc ấy khơi trong lòng Ngà những câu hỏi không sao trả lời được,
cũng như những cảm xúc thật khó giải thích.
Mỗi buổi chiều vào sở làm, hầu như tất cả nhân viên Việt đều đeo head
phones để nghe đài Little Sài gòn tường trình diễn biến biểu tình, và các cơ sở
thương mại đồng lòng nhường giờ quảng cáo thương vụ của họ cho nhà đài sử dụng. Cơ sở này mang nước mang bánh mì tặng, cơ sở
kia ủng hộ tiền, nhân vật nó góp mặt… Giờ
cơm, cả bọn tụ vào phòng ăn bật ti vi xem trực thăng quần trên đám đông đen nghẹt
như kiến.
-Đây là xứ tự do, ai muốn làm gì thì làm sao
phải biểu tình. Chị Hương bĩu môi
-Thì ai muốn biểu tình thì biểu tình, sao phải
phản đối! Anh Minh nheo mắt.
-Cái thằng đó nó muốn trêu ngươi mình nên hai
vợ chồng phải để bàn thờ nơi tiệm làm ăn rồi quì lạy như lạy mả tổ. Nó cứ để bàn thờ ở nhà nó mà lạy cho sói trán
cũng chả ai thèm thắc mắc. Thằng Huy
đế thêm vào.
-Trần Trường hay chứ, dám nói dám làm, một
mình chống lại đám đông. Làm gì nhau! Cả bọn trợn mắt nhìn Kevin.
-Mình phản đối thì thành độc tài như nó, mà
im lặng thì nó nhảy lên đầu. Nay mai nó
làm hàng xóm của mình mà cứ ngày đêm treo lá cờ đỏ trước mặt mình thì không lẽ
dọn đi, mà chấp nhận thì ở quách Việt Nam, qua đây làm chi, ông Thạch góp
tiếng.
-Qua đây để tranh đấu cho cái quyền được treo
cờ của nó! Cả đám quắc mắc nhìn ông
Chữ.
Ngà
bật cười thấy trên ti vi cảnh Trần Trường ngã lăn quay ra đất ăn vạ dù chỉ bị
ai đó quơ tay tát. Cảnh sát xông tới bảo
vệ. Ngà lo ngay ngáy rủi ai đó nổi sung
hay thọc gậy bánh xe mà đám đông không giữ được bình tĩnh thì kể như loạn, kể
như tai tiếng khó lòng bôi xóa. Bố, bố đứng
ở đâu trong biển người ấy? Giờ này ông
Thể hàng xóm cũng đang ôm lấy cái ti vi thu lại những đoạn tin do đài truyền
hình địa phương trình chiếu. Ngà thấy bồn chồn tức giận những khi nghĩ đến lá
cờ ấy, rồi lại buồn rầu sao mình đã ra đi mà không dứt được hai chữ cộng sản. Ngà những tưởng sự liều thân và chặt đứt cội
nguồn là giá sòng phẳng mình đã trả cho một chỗ đứng nơi này, và cuộc đời không
thể đòi hỏi gì thêm nơi Ngà. Ngà phải
bình thản nhìn lá cờ ác mộng ấy? Ngà phải
tranh đấu cho quyền của kẻ đã bức hại mình?
Trần Trường dùng lá cờ ấy chỉ là khiêu khích, kẻ gieo bài toán đã có đáp
số, nhưng một bài toán khác đã rớt vào tay Ngà.
Có mảnh đất nào cho người Việt ngoài này sinh sống với nhau mà không phải
nhắc đến hai chữ ấy?
Ngà
lái xe về nhà, như về tới thiên đường.
Thiên
đường lạnh ngắt và vắng vẻ. Năm ngoái thằng
Quang đã giã từ “tỷ, muội” về lại Texas với cậu và em trai. Đầu năm nay em Châu lập gia đình và ra
riêng.
Những
ngày có em Châu là những ngày êm ấm.
Châu rất tháo vát và tràn sức sống.
Mỗi sáng nó dậy sớm pha cà phê cho chị xong sửa soạn đi học. Đi học còn có nghĩa là đi làm phụ giáo sư kiếm
thêm tiền. Về nhà, Châu lao ngày vào bếp
nấu cơm. Cuối tuần nó mang quần áo ra tiệm
giặt sấy gần nhà để giặt giũ, không quên mang theo cái máy cassette để nghe cải
lương ông ổng. Chỉ một mình Châu bước
vào mà gian nhà cô quạnh của Ngà đã trở nên ấm cúng và Ngà như có cả một mái
gia đình. Ngà cứ tưởng nó rồi sẽ ưng một
anh Việt Nam thuần túy nào đó, nhưng nó đã mang về một anh bồ Mỹ cao gấp
đôi. Những anh kép về sau tuy cũng là
người Việt, nhưng phần nhiều đã sinh sống nơi đây từ thuở bé. Ngày cưới, Châu cũng xếp bàn cưới của mình và
phù dâu phù rể riêng trước sân khấu, không như những đám cưới Việt Nam dâu rể
ngồi cùng bàn với tứ thân phụ mẫu. Nó
cũng mua quà cưới cho chồng, cứ y như Mỹ, Mỹ húp nước mắm nói tiếng Việt. Châu dọn ra rồi gian nhà trở lại cái lạnh lẽo
cũ, dù cứ đôi ba ngày là nó gọi điện thoại tỉ tê. Không còn ly cà phê pha sẵn buổi sáng. Không còn những món thức ăn nấu sẵn chỉ việc
hâm lên là ăn. Không còn quần áo gấp xếp
ngay ngắn, treo gọn gàng vào tủ áo. Châu
không phải người ngăn nắp, nhưng Châu chu toàn tất cả mọi việc theo cái ngăn nắp
mà nó thấy khi vào ở với Ngà. Sức sống
đã theo Châu ra khỏi thiên đường.
Còn
lại một mình, cũng nhiều lúc Ngà nấu món này làm món nọ, nhưng nấu xong thì chẳng
còn thèm cái món vừa mới cạy cục làm, món ăn bày ra còn nguyên vẹn mà lòng đã
ngao ngán ê chề tựa như đó là đĩa thức ăn thừa.
Ngà đã đổi tông ăn cơm tháng. Gọi
một phần cơm tháng chỉ lấy thức ăn và cơm tự nấu thì ăn được 2 bữa, mà nhà cơm
tháng nào cũng chỉ ăn được vài tháng thì phải giã từ. Dần dà, Ngà thấy như mình ăn lông ở lỗ.
Ngà
mở gói mì gói trụng sơ rồi đổ vào chảo dầu đã nóng với một bát cơm nguội, rắc
lên một nửa gói bột nêm. Năm phút, cơm
và mì đã rám thì trở mặt. Mười phút, Ngà
đã xong bữa tối.
Ngà
vào giường với mớ sách.
Một
quê hương khác hiện ra trước mắt Ngà. Phim
ảnh mật được trình chiếu, những tấm vai oằn lội ruộng, những tay chân văng vãi,
những ngày trọng cấm, giọt nước mắt không đủ ướt quan tài, những tấm áo bó sát
người dưới cơn mưa, thôn làng bốc khói sau gót chiến tranh, thành phố với nhịp
sống át tiếng đạn pháo kích... Cậu Kỳ
không chỉ là những két bia nhậu tan tành những ngày phép. Anh Đặng không chỉ là mê gái trốn tàu ở lại
thành phố. Anh Long hàng xóm không chỉ
là khổ đau vợ bỏ nên đăng lính. Những
người lính tai trời ách nước ấy chắc cũng không biết đời mình hay cái chết của
mình có ý nghĩa gì, những người dân quê không sao hiểu được số phận. A ha, Ngà tìm thấy Ngà trong khúc phim bí mật
ấy dưới hàng chữ của một người xa lạ.
Cái hãnh diện là người thua cuộc miền Nam không còn là hãnh diện hão,
cái nhố nhăng hỗn loạn của xã hội với club Mỹ và con gái bán bar không còn là
điều đáng khinh. Ôi Ngà yêu đất nước yêu
thành phố của mình, yêu những truyện nhảm đã đọc, yêu cái mộng mơ ngu xuẩn của
tuổi dại khờ, yêu luôn những mặt trái vô luân của xã hội. Không sống thực sao có được những cái xấu,
không văn hóa giáo dục sao biết tự sỉ vả tự khinh mình. Ngà tự nở nụ cười trong đêm vắng, ừ, tụi tao đồi trụy, nhưng đố tụi mày đồi trụy
được vậy. Một tiếng kêu thống khổ của
Phan Nhật Nam, với riêng Ngà, đủ giữ phẩm giá cho người thua cuộc. Nếu mai mốt “chả” còn sống mò qua được bên
này mình phải tìm tặng một trăm đô. Đêm
với những cuốn sách không còn trống lạnh.
Ngà hiểu vì sao mình thờ ơ với rừng văn chương của phương Tây, của Nga của
Đức, của văn hóa nhân loại, của “thân phận con người,” của ý thức suy tư trăn
trở. Ngà không cần những thứ ấy bởi Ngà
cần Ngà. Trời sao mau sáng quá.
***
Ngà
đi tà tà vào phòng họp báo Người Việt.
Trên bàn đã có đủ những khuôn mặt
kêu gọi họp báo. Ngà vốn không tha thiết
vào những việc này vì thấy mình bất lực, nhưng Ngà muốn xem mặt tác giả Tiếng Vọng
Từ Đáy Vực mà Ngà đã đọc khi mới tới Mỹ, Ngà muốn tìm gặp một người để trao một
món quà tự hứa với lòng.
Buổi
họp đã bắt đầu. Trên bàn chủ tọa, Nguyễn
Chí Thiện “kệ cha bác” lên tiếng. Ông
nói dõng dạc, rõ ràng và dứt khoát. Ông
dùng chữ chính xác cho điều muốn nói.
Ngà nghĩ, những người đứng đắn có thể không thích ông nhưng chắc khó có
thể bài bác chỉ trích lời nói hay thái độ của ông. Ngà yên tâm với một người đến từ xứ Bắc, và
chợt nhận ra, cái máu phân biệt kỳ thị và nghi kỵ đang chạy, vẫn hằng chạy rần
rần trong huyết quản của Ngà.
-Đã có mặt nhà văn
Phan Nhật Nam.
Một
tiếng nói cất lên, một bóng người đang bước dần vào trong. Hai người trao đổi nho nhỏ với nhau sát bức
tường, cách chỗ Ngà đứng vài bước. Không
ngăn được tò mò, Ngà khẽ chồm nghiêng đầu qua một bên định nhìn lén người lính ấy. Ngay lập tức cái đầu người ấy nghiêng ra ngó
vào mặt Ngà qua vai người đối diện. Bị bắt
gặp ngay tại chỗ, Ngà nhe răng cười và lui đầu lại, lòng thầm ngán cho cái
nhanh nhạy của ông ta.
Phan
Nhật Nam bước lên bục, nói vắn gọn đôi điều rồi bước xuống đi thẳng ra cửa. Ngà lật đật đi theo sau lưng.
Nắng
chói mắt so với ánh dịu tối trong phòng họp.
Người lính gày gò bước những bước chắc đều, đầu hơi chúi ra trước, không
vội vã nhưng cũng không thong thả. Ngà rảo
bước theo tới. Chưa kịp đến gần, ông ta
quay lại nhìn thẳng vào mặt Ngà, đuôi mắt dài như cười, như tò mò, nét mặt nửa
cam chịu nửa thách đố, nửa thờ ơ:
-Cô đi theo tôi có việc
gì? Câu hỏi thẳng tuột nhưng không sỗ sàng.
-Dạ
để làm quen.
-Làm quen để làm gì?
Ngà
không biết miệng mình có há ra, mặt mình có đần ra không với câu hỏi ngắn gọn ấy. Ngà không còn có thể lui bước, cứ lúng búng
mà không biết trả lời sao bởi Ngà cũng chả biết làm quen để làm gì. Không lẽ nói tui muốn tặng ông một trăm đồng?
Một trăm đồng, dưng không Ngà thấy ngượng. Bao nhiêu trăm có thể mua mạng sống của một
người lính, bao nhiêu trăm bù được những lao khổ tù đày, bao nhiêu trăm xoa dịu
được đớn đau mất mát của một tuổi thanh xuân một tư cách một lý tưởng đã bị dập
vùi chà đạp? Ngà thấy mình thật bôi bác,
thật không phải, một lòng quí mến chân thành bỗng chốc hóa điều lố bịch. May quá, Ngà không có sẵn một trăm đồng để có
thể làm trò ngu xuẩn. Hình như thấy được
sự lúng túng bẽ bàng của Ngà, ông ta nói,
-Thôi được rồi, cô
ghi địa chỉ email cho tôi, rồi tôi sẽ liên lạc với cô.
Miệng
nói tay móc túi áo vest ra một tấm danh thiếp.
Ngà kê tấm danh thiếp lên một cốp xe lấn bấn viết xuống địa chỉ email rồi
lật bật trao vào tay người lính ấy. Gật
đầu, rồi ông ta lặng lẽ đi tiếp. Ngà
cũng lủi vào xe mình lái đi ngay như sợ bị ông ta quay lại túm lấy hỏi thêm một
điều gì đó.
Ngà
về đến chỗ anh Võ thì bình tĩnh lại. Anh
Võ tay ôm đàn miệng ngậm điếu thuốc đang ngồi trước hàng ba, thấy Ngà anh dựng
đàn xuống sàn khoát tay chỉ băng ghế gỗ bên cạnh.
-Đi
đâu vậy?
-Em mới đi coi họp báo vụ VietWeekly. Anh Võ bật cười khẩy
-Ủa,
lại muốn phụ nữ vùng lên nữa à?
-Không phải, đi coi mặt người ta.
-Ai?
-Phan Nhật Nam.
-Sao
không nói với anh, anh dẫn tới giới thiệu.
-Nhưng em đâu có muốn được quen nhà văn.
-Vậy
tìm gặp người ta làm gì?
Ngà
nín thinh, nghĩ xem có nên nói thiệt.
Anh Võ chỉ im lặng. Anh hơn Ngà
18 tuổi, có dư kiên nhẫn để chờ Ngà nói hay không nói. Ngà kể cho anh nghe những nhát gừng gập ghềnh
khi nãy. Anh Võ bật cười hô hố, nheo mắt
nhìn Ngà,
-Làm
quen nhà văn mà bị xù, mặt cũng dầy đó chứ.
Câu
nói đùa chọc quê làm Ngà bật cười, Ngà thấy vơi bớt dần nỗi bẽ bàng trong
lòng. Bây giờ Ngà mới nhớ ra, ông ta
không hề cho Ngà số phone hay địa chỉ email.
Những phản ứng của ông ta lẹ làng trơn tuột như không cần một chút nghĩ
suy. Ai chọn ông đi cãi với Việt Cộng
thì cũng sáng mắt đó chứ.
Con
Ngầu vác bị xà vào. Chuyện lớn gan đi
làm quen mà bị xù lại được đem ra bêu tiếp.
Thì còn gì đâu ngoài chuyện tố cáo trêu ghẹo nhau. “Lệ đã đi rồi,” ba năm chung sống, chị đã tìm
được điều hạnh phúc hơn được sum vầy cùng
anh và bạn hữu dưới ánh đèn vàng võ.
-Tụi
nó hỏi tới hỏi lui, anh nói tao liệt rồi, xong, em à.
Xong,
và anh mỗi tối ngồi trầm ngâm nơi quán ăn đường số Năm cho đến khi đóng cửa. Có những ngày con Ngầu phải đem xe nê anh về
nhà. Ngà chẳng dám nhìn anh vì nỗi cay đắng
bốc như hơi ớt hiểm dưới vòi nước nóng.
Nhưng anh Võ, anh có biết, dẫu sao chị Lệ cũng là điều tốt đẹp nhất đã đến
với anh trong quãng đời cô quạnh mấy mươi năm?
Duyên tình, không phải liều mạng thì vững bền, không phải kiên gan thì
trốn thoát. Dưng không Ngà tức cười, một
người không còn muốn yêu đương thì lại vướng chữ tình, một đứa thèm yêu thì lại
cứ lêu bêu mỗi mối tình chỉ kéo được tối đa một năm, còn cái con Ngầu kia,
không biết nó muốn làm chồng hay làm vợ…
Bóng tối đè dần xuống ba cái tượng trầm ngâm ngó mông vào khoảng tím nhờ
trước mặt, trĩu nặng xuống căn mobile home ọp ẹp.
***
Ngà
chạy 3 vòng thì tìm thấy một khoảng trống bé tí bên lề đường. Ngó trước, ngoái sau, quay tay lái hết vòng
qua trái _ de vào được 3 tấc. Đạp thắng
quay tay lái hết vòng qua phải, thả cho xe lùi ngay lại. Trái, phải, trái, phải, độ 3 lần thì xe lọt hẳn
vào khoảng đất khiêm tốn ấy. Dấn từ từ
lên cho đụng nhẹ vào cản xe trước. Lui
nhè nhẹ cho chạm hờ vào cản xe sau. Tả
xung hữu đột độ mười phút thì đậu xong chiếc xe, na bị sách vở trên lưng băng
sân trường vào đến lớp thì đã mất hơn nửa tiếng. Học đại học không chỉ tốn tiền học phí tiền
sách vở tiền thẻ đậu xe dù không mấy khi tìm được chỗ đậu trong bãi của nhà trường. Học đại học phải thức khuya chạy bài, dậy sớm
tìm chỗ đậu xe, và đi bộ mờ mắt với túi sách vở nặng vài mươi pounds. Những lúc ấy Ngà thèm chuỗi ngày biếng nhác
sáng ngủ dậy trễ ra vườn ngửi hương hoa hồng, vào nhà ngâm người vào bồn nước ấm
vừa đọc sách vừa nhâm nhi cà phê. Ăn
trưa, xay nước trái cây uống rồi đủng đỉnh ra phố đi chơi một vòng trước khi đến
sở làm. Ôi, ngày thong thả nay còn đâu.
Nhưng
món nợ với Má không trả e không nhắm mắt.
Món nợ thiếu học vấn truyền đời, từ những ngày cơ cực thuở ấu thơ cho đến
những năm tháng tảo tần vì gia đình và hoàn cảnh của Má đã giao vào tay
Ngà. Ở nơi này Ngà có quyền thất học và nghèo khó mà chả sợ bị ai chà đạp, nhưng
đã tới lúc phải thanh thỏa. Lời cà khịa
của con Lan vang vang bên tai.
Sau
những giọt nước mắt mừng vui gặp lại nơi cố hương, sau vài đêm ngủ với nó trên
chiếc giường đầy mùi nước đái của đứa con gái một tuổi, Ngà với nó đã cạn niềm
vui tái ngộ. Buổi sớm ở Thủ Đức thật êm ả
và mát mẻ, Ngà với con Lan ra vườn lan nó gầy trước sân với hàng trăm chậu nhỏ
treo tòn teng dưới giàn gỗ mắt cáo. Con
Lan không chỉ hãnh diện với căn nhà to đùng khang trang, với thú chơi tao nhã,
với cuộc sống rất đầy đủ tiện nghi vật chất và không thiếu những niềm vui xa
hoa. Con Lan còn hãnh diện nói cho Ngà
hay “Việt kiều tụi bay nhiều đứa nói tiếng
Mỹ sai be bét mà cứ bày đặt xổ tiếng Mỹ.”
-????
-
Mấy ông thầy bà cô in ra những câu nói của
Việt kiều tụi bay rồi chỉ cho biết những lỗi văn phạm và ngữ vựng đầy rẫy. Tao học lớp Anh Văn bằng B xong rồi, nay mai
sẽ học luôn bằng C rồi thi Toefl. Mày đừng
tưởng cứ ở Mỹ là giỏi tiếng Mỹ hơn tao đâu nha.
Quá
sức đúng, và quá sức oan uổng, bởi Ngà có dám xổ ra một chữ Mỹ nào đâu với bạn
bè ở Việt Nam. Thôi được, tới xứ học
hành mà không học hành khác nào tậu đất rồi bỏ hoang, uổng công Má một đời khắc
khoải. Ngà về lại Mỹ lấy thẻ tín dụng
đóng tiền đi học lại. Những ngày tháng
rong chơi vậy cũng đủ lắm rồi!
Đường vào trường đua
có trăm lần thua có một lần huề. Những
khi không qua được bài test Ngà thật buồn nản muốn buông tay. Lối học tắt học cho nhanh học bằng thông minh
lanh lẹ những năm đầu tới nơi đây chỉ cho những kết quả bề mặt. Giờ đây phải đối diện với cái dốt Ngà nhận ra
mình mang một số ảo tưởng về bản thân _ gốc gác con nhà tỉnh thành, học sinh
Gia Long vân vân… Sự thật này không chắc
tổn thương đời sống nhưng rõ ràng nó tổn thương tự ái và lòng hãnh tiến của Ngà,
khiến chuyện thi rớt học không qua được một môn nào đó thật khó nuốt. Nhưng Ngà có cách nào hơn là chấp nhận, bởi
ăn gian để đủ điểm thì ý nghĩa gì việc học, nhất là việc học đó cần thiết cho
tâm hồn của Ngà. Thôi được, cũng lại
thôi được, thà học dở ít điểm nhưng ráng học cho xong mảnh bằng, cho xong một ước
nguyện, cho xong một bổn phận đối với bản thân còn hơn vì tự ái buông
xuôi. Cứ vậy, Ngà đi học đi làm và chẳng
còn thì giờ đàn đúm. Con Ngầu không còn
lôi kéo Ngà với những đêm hoang bên đàn rượu và thuốc lá. Anh Võ chìm mất giữa biển đời Bôn Sa.
Ngà
vào lớp, ông thầy gốc Ấn độ cười cười. Ngà
nộp bài viết rồi xuống cuối lớp chọn chỗ trong góc úp mặt xuống bàn thiu thiu
ngủ chả nghe thầy giảng điều gì cả.
Hết
giờ, Ngà đi ngang bàn giáo sư gật đầu chào.
Thầy hỏi “chắc hôm nay bài giảng
không thích thú, tôi thấy cô cứ ngủ gật?”
“Em chỉ mệt thôi, thưa thầy.” Thầy
đâu biết Ngà đã thức suốt đêm để làm cho xong một bài chỉ vài trang giấy, vì cái
tật ham chơi đợi nước đến chân mới nhảy.
Làm research dù nhỏ hay lớn thì khối lượng tài liệu phải tìm kiếm và sử
dụng cũng đều gấp hơn vài mươi lần số trang phải viết. Việc tìm tài liệu, đọc tài liệu, rồi soạn lại
để dùng trong bài viết rất tốn thời gian, khoan nói mình có biết muốn nói cái
gì trong chủ đề đã đưa ra. Một lớp, rồi
một lớp. Cái mệt mỏi cũng mệt mỏi lê
theo mình! Ngà chỉ còn biết hoàn tất mỗi
mùa 3 lớp, có khi chỉ 1 lớp nếu gặp môn khó.
Từng lớp từng lớp, ráng hết sức để nếu không được điểm cao thì cũng đủ
điểm vượt qua. Khi khả năng đậu xe song
song với lề đường đã khá, Ngà cũng vừa xong chương trình học.
Ngày
Ngà ra trường mặc tấm áo đen đội chiếc mũ vuông với chùm tua bỏ qua bên phải
thì đã 40 tuổi. Ngà đứng bên vợ chồng em
Châu, bên Má vừa qua Mỹ được vài năm, và hai người bạn, nơi một góc thật xa của
sân trường. Nắng sáng trải êm trên thảm
cỏ mênh mông, bên nỗi mừng vui hãnh diện chợt thấm một nỗi buồn cô quạnh. Ngà vẫn hằng biết mình là một loại người cô lẻ,
nhưng tiến được một bước trên bực thang hiểu biết cũng là xa một giòng sông với
những gì đang có quanh mình. Cuộc đời cũ
còn đó nhưng mình không còn có thể trở lại, cuộc đời mới trước mặt biết có
phong phú lên hơn hay sẽ càng thêm lạnh lẽo?
Dường như càng biết càng ngại ngần, càng khôn càng thấy mình kém cỏi. Và Ngà vẫn chỉ là một người không cội rễ
không một níu kéo buộc ràng ngoại trừ những vấn vương trong tâm tưởng. Nắng bờ
sông như màu trang vở cũ, câu thơ Nguyễn Tất Nhiên đọc những ngày mới lớn
như úa sậm mắt Ngà.
Ngà
nghĩ đến một cuộc đi. Đi tìm hình, tìm
cái cô quạnh của đất trời bao la, vì chỉ ở những nơi hoang tịch mới thấy nỗi cô
đơn của mình được dung hòa.
Ngà
theo đường 395 lên vùng Bishop. Tiếng là
đi một mình, thực ra Ngà “đi hôi” theo đoàn săn ảnh của hội dưới Santa
Ana. Đi hôi, cứ việc theo đoàn xe của họ,
họ ghé đâu dừng đâu thì mình cũng trụ ở đó.
Riêng việc ăn uống và phòng ốc phải tự lo, nhưng Bishop Lake đang mùa lạnh,
dân cư ít nên việc kiếm chỗ trọ không khó.
Chớp mắt, Ngà đã đứng bên hồ nước trong xanh phẳng như gương. Trời tháng 2 dẫu tuyết đã tan nhưng đỉnh núi
vẫn trắng xóa và nước trời vẫn lạnh như cắt.
Không một làn gió thoảng lay, tiếng cười nói xôn xao của nhóm học viên
săn ảnh như những viên sỏi vô hình rơi xuống hồ không một gợn sóng. Ở một góc nào đó, nước nhè nhẹ tuôn chảy mang
theo những hoa bọt trắng lặng lờ đầy mặt.
Đó có phải hình ảnh của Ngà?
Má
rồi cũng đã gặp lại. Gia đình, thì cũng
vẫn còn đây. Nhưng Ngà càng thêm cô lẻ,
bởi mười mấy năm cách biệt sông đã thêm vạn nhánh đời. Ngà không còn có thể là Ngà xưa cũ nghĩ theo
cách Má nghĩ làm theo cách Má làm. Ngà
không còn có thể an tâm với văn hóa cội nguồn bởi nó lục đục với những gì Ngà
đã thâu tóm vào lòng sau bấy nhiêu năm sống một mình nơi xứ lạ. Dẫu tình thương của Má rộng như cái hồ này,
thì khoảng cách của hai tâm hồn cũng chắc như lớp tuyết không tan trên đầu núi,
cũng lạnh như sương quanh năm bao phủ mặt hồ.
Cái ao ước tưởng như phải đổi hết cả một đời để được gặp lại Má, tìm lại
được mái gia đình, bỗng phút chốc như từng sợi tuyết rơi bay bay trong giá lạnh. Ngà nhận ra bây giờ mới thực sự tuyệt lối về. Không tên không tuổi, nỗi buồn như những tảng
đá nằm lặng dưới mặt nước, kiên gan chẳng đổi dời và có lẽ không còn có thể đổi
dời. Ngà đứng lâu, rất lâu, chả bắt được
bức hình nào. Khi đoàn săn ảnh thu dọn,
Ngà cũng theo họ ra xe của mình và rồi suốt mấy ngày lẽo đẽo đi với họ Ngà cũng
vẫn chỉ cầm máy ảnh làm vì. Lên núi xuống
biển, người ta đi đâu cho thanh thỏa nỗi hoang mang?
***
Nhà
thờ Dòng Chúa Cứu Thế chỉ là một nhà thờ nhỏ, các buổi lễ không nhiều giáo dân
vì phần nhiều họ đi lễ ở nhà thờ của giáo phận.
Phía sau nhà thờ là một dãy phòng ốc dành cho quí cha đã về hưu cư
trú. Mấy năm trước Ngà thường theo ca
đoàn đến đây thâu ba bốn bài hát mỗi tháng dành cho chương trình truyền hình Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp, nhưng nay công việc ấy đã chấm dứt, chỉ còn thỉnh thoảng mới
đến hát lễ nhân một dịp gì đó. Dịp này
là lễ tạ ơn của quí sơ cho công việc bác ái ở Việt Nam.
Ban
thánh ca ngồi bên trái của cung thánh, nhìn xuống thấy chỉ độ 60 người xem lễ,
mà có hết hai phần là quí sơ và gia đình.
Tuy vậy, niềm thành kính tri ơn tỏa ra trên từng khuôn mặt hiền hòa đơn
sơ. Cha chủ lễ còn rất trẻ đang hăng say
với một bài giảng. Cha nói tiếng Việt,
nhưng là tiếng Việt của những đứa trẻ lớn lên nơi xứ này, âm giọng có phần ngọng
ngịu rất dễ thương. Đứng bên cạnh cha là
một cha cao nhòng đen thui, có lẽ ở Việt Nam sang? Ngà không biết sao mình bị thu hút bởi nét mặt
đen đúa nhưng thanh tú ấy. Miệng cha
luôn có một nụ cười an hòa. Ngà nghĩ mặt
Cha đẹp như nét mặt Chúa Jésu. Có lúc
Ngà thấy như Cha đang nhìn mình cười chúm chím.
Ngà hoa mắt hay vì cái nhìn chòng chọc của Ngà đã làm cha phải chú
ý? Ca trưởng đã phất tay, cả bọn đứng
lên chăm chú vào câu hát.
Khi
hiệp lễ có phần đọc lời nguyện bằng Anh ngữ, và ông Cha đen thui đẹp như Chúa
Jésu của Ngà đã nói một tràng không vấp váp.
Ủa, Ngà thầm ngạc nhiên thú vị cái điều Cha ở Mỹ nói tiếng Việt và Cha ở
Việt Nam giỏi tiếng Mỹ. Đi lễ không chú
tâm hiệp lễ mà cứ nghĩ bắng nhắng, Ngà tự mắng mình, may chưa hát sai nhịp sai
lời. Lễ tan, một sơ đại diện lên nói lời
cảm tạ và còn tặng cho mỗi ca viên một món quà nho nhỏ làm vui sau khi đã ân cần
mời mọi người ra ngoài dùng bữa. Ngà cất
sách nhạc vào giỏ chuẩn bị đi thay bộ áo dài cho đỡ vướng, chung quanh những ca
viên khác đang lao xao hỏi thăm Cha Việt Nam.
-Tôi là cha Bách ở
Missouri.
Ngà
lóng cóng đánh rơi giỏ. Bách, Bách đây
mà, sao mãi Ngà chẳng nhận ra? Ngà lật bật
bước tới hỏi:
-Cha
có nhận ra ai đây không?
-À, tôi thấy rất quen
nhưng thật không nhớ tên. Vẫn nụ cười điềm
nhiên an hòa, giọng nửa Trung nửa Nam.
Đúng là Bách không còn có thể lầm lẫn.
Ngà kiễng chân nói nhỏ vào tai Cha,
-Ngà!!!
-À, phải rồi, không kịp
nhớ ra. Vẫn cười cười.
Hèn
nào Cha nói tiếng Mỹ giỏi. Hèn nào Ngà cứ
bị dính mắt vào khuôn mặt ấy. Ngà vào
phòng vệ sinh loay hoay với bộ quần áo dài mãi không cởi ra được phải nhờ một bạn
giúp. Khi Ngà ra ngoài sân, Cha Bách
cũng đã thay một bộ vest đen với cổ trắng cố hữu của linh mục. Linh mục _ Bách, Bách… Ngà đứng bên cạnh không biết nói từ chỗ nào
cho khoảng cách mấy mươi năm, cho khoảng cách đạo đời như hai bờ vực.
-Ngà vẫn ở chỗ cũ?
-Dạ
không, nay Ngà đã dời xuống Westminster, chắc Bách không biết đâu.
-Cũng biết chứ, mình có bà chị ở vùng
Brookhust.
-Ngà
đã quen cách cũ mà xưng gọi nhau bằng tên, nhưng nay Bách đã là Cha, xin đừng
giận Ngà.
-Không sao, cứ xưng gọi như thông thường cũng
được.
Bách
di di mũi giầy trên nền xi măng, Ngà nghĩ ra Bách đã nhận ra Ngà từ trước. Ngà ngước nhìn Bách, như đoán được câu Ngà sẽ
hỏi, Bách thủng thỉnh nói,
-Hồi trước cũng đi
nơi này nơi kia, tìm kiếm, nhưng khi đã…
từ lúc tìm được… thì thấy rất thanh thản bình an…
Nỗi
bồi hồi làm cho Ngà không nghe được trọn câu nói, nhưng Ngà hiểu, Ngà nghĩ mình
hiểu, rằng sau nhiều năm tháng tìm kiếm Ngà, tìm kiếm một tâm hồn, giờ đây Bách
đã tìm được niềm ủi an nơi Chúa. Là định
mệnh đã an bài. Có thật không Bách?
Ngà
từ giã Bách ra về, quên cả một lời chúc lành cho ngày mai. Hai bên không hỏi nhau số phone địa chỉ hay hẹn
một lời liên lạc. Hiển nhiên định mệnh
đã an bài.
Có
thật là định mệnh, để Ngà gặp lại Bách trong bộ áo chùng?
Ngày
ấy Bách là một thanh niên hiền lành trong sáng.
Bách phụ trách một đội thiếu nhi thánh thể, mỗi lần lên đồi tôn giáo Ngà
thường thấy các em quấn quít bên Bách chơi một trò chơi, học một bài giáo
lý. Bách rất đơn sơ và hơi có vẻ rụt rè
mỗi khi gặp Ngà nơi lớp Anh Văn dưới hội trường. Thỉnh thoảng lỡ một buổi học, Bách thường ghé
qua lều của Ngà hỏi mượn bài. Ngà chả
bao giờ nhìn Bách hai lần, trong mắt Ngà Bách là một thanh niên dễ thương nhưng
chỉ có vậy.
Cho
đến đêm cuối rời đảo. Hùng rủ lên chỗ của
Thanh dự tiệc nhậu từ giã nhưng Ngà nại cớ phải thu xếp hành lý để ở nhà. Lều bên của gia đình cũng trống vắng, mọi người
ai cũng có một bữa tiệc giã từ, ngay cả mợ cũng theo bố đi chào bè bạn. Còn một mình Ngà lại thấy thoải mái, bởi lòng
Ngà ngổn ngang về một ngày mai mơ hồ. Có
ai bình tĩnh trước bước đường bất định?
Ngà ra sau rửa mặt mũi tay chân.
-Ngà ơi…
Nghe
tiếng gọi, Ngà lật đật chạy ra trước hai tay vẫn còn níu hai ống quần nước nhiễu
dòng theo ống chân và tóc mai còn dán sát vào má. Bách bước vào trong tay cầm lá thư miệng nói
tiếp,
-tính
nhờ Ngà… Nhưng rồi Bách im bặt. Ngà không cần nghe hết cũng biết nghĩa vụ mặc
nhiên của người sắp rời đảo, nhưng Bách chỉ im lặng vẻ sững sờ. Trăng hắt xéo qua khung cửa chéo một vạt lên
nét mặt đen đúa của Bách rồi chìm rớt vào đáy mắt, từ đó dội ra một ánh xám bạc
hoang liêu dừng trên mặt Ngà. Như mê muội,
Bách bước tới hay tai nâng mặt Ngà lên cúi sát xuống. Ngà bất động trong nỗi ngạc nhiên như bị thôi
miên. Bách đặt môi lên miệng Ngà, cánh
môi nhẹ nhàng hưỡn đãi vờn quanh vành môi của Ngà rồi nhẹ nhàng đẩy bật hai hàm
răng. Bách hôn Ngà thắm thiết như đam
mê, một nỗi đam mê cuồng lạnh, tay đỡ lưng Ngà xuống tấm phản gỗ. Là ánh trăng hay là nỗi sững sờ của Bách đã
thôi miên, Ngà thấy mình bình thản tiếp nhận Bách như tiếp nhận một điều hiển
nhiên của sự sống, như tiếp nhận một nguồn suối bình an vào cơ thể mỏng
manh. Bách không vồ vập nhưng nỗi thúc
bách như không thể cạn dừng, như nước lũ đã tới ghềnh phải đổ xuống. Nỗi đam mê như bao bọc Ngà rồi thâm nhập vào
tận cùng xương tủy.
-Ngà,
Ngà… Bách đã dừng chuyển động, một giọt
nước mắt long lanh nơi khóe. Bách úp mặt
vào tóc Ngà, tấm thân hơi run. Bách khẽ
nhấc mặt lên nói một điều gì đó, nhưng tâm trí Ngà còn vấn vương với hai vành
môi bật răng của mình, cơ thể Ngà còn buốt với một giao tiếp không cuồng nộ
nhưng đủ bầm dập. Bách, chúng ta là hai
kẻ lạ, lạ hơn cả ánh trăng, điều gì đã xảy ra cho hai đứa? Ngà nằm im với da thịt lâng lâng, đầu óc bảng
lảng mò mẫm trên thân thể mình nhớ lại từng chỗ đã xúc chạm. Bách, tiếng gọi mơ hồ như con người của Bách,
nhưng cảm giác trên thịt da vẫn như đang rung động dù hai thân xác đã rời
nhau. Bách đã bước vào đời Ngà bất ngờ
hơn cả một giấc mơ.
Tiếng
loa chợt vang lời chào kết thúc buổi phát thanh trong ngày. Bách đứng lên rời rã ngẩn ngơ như kẻ bị ma
ám. Ngà thấy mình đã có quần áo trên người
dưới lớp chăn mỏng. Rồi Bách vuốt má Ngà
khẽ lời từ giã. Nhưng Bách đứng mãi nơi
khung cửa lều cho đến khi nghe tiếng người lao xao cuối dốc.
Buổi
sáng Ngà rời đảo, Bách len giữa đám đông nắm chặt bàn tay Ngà, đưa vào tay kia
hai lá thư, ánh mắt đau đớn bất lực.
-Nhớ liên lạc? Bách nói như khẩn cầu. Đám đông lục đục lao xao không ai để ý đến
Ngà, và Ngà đã quay bước như mộng du không biết mình đã nhận được gì để lại gì
nơi đảo vắng.
Những
ngày mới định cư, khi ổn định Ngà đã nối liên lạc với Bách. Nhưng Bách qua một giấc mơ vẫn là Bách xa lạ,
là Bách mà Ngà không nhìn hai lần. Ngà
thương cái kỷ niệm đầu đời của mình nhưng Bách không kịp là người Ngà mong tưởng. Khi Ngà gặp lại Bách dường chỉ có sự ngượng
ngùng _ ngượng vì nỗi hai kẻ xa lạ đã có một lần chập sát vào nhau. Bước chân bên cạnh Bách tựa như hai người đi
hai bên bờ vực. Giả Ngà gặp Bách trễ hơn
biết đâu đã có thể cùng Bách nắm tay nhau đi dưới hàng cây trong thinh lặng. Biết đâu Ngà đã có thể cùng Bách đứng bên hồ
im nghe tiếng thời gian. Nhưng biết Bách
có lớn kịp cùng Ngà trên dốc đời, có là chỗ cho Ngà tựa lưng, có là nơi cho Ngà
chôn dấu tâm hồn. Cuộc sống như sóng dồn,
đẩy tấm thuyền bé ngày một xa khơi qua muôn khúc quanh qua ngàn dòng nước. Ngà và Bách đã dạt khỏi nhau như một giấc mơ
tỉnh dậy là quên hết. Mọi sự đều có thể
và đều không có thể, trăng còn mãi với thời gian nhưng làm sao để có lại một lần
cái màu xám bạc hoang liêu. Gặp lại Bách
như gặp lại một mảnh đời thất lạc. Gặp lại
Bách như tìm thấy bóng mình của thuở đầu đời.
Gặp lại Bách như đã đi hết một vòng của cuộc sống. Ngà nhận ra mình vẫn nhớ bờ môi ấy. Ngà nhận ra mình vẫn nhớ hơi ấm của bàn tay
xưa.
Vành
môi cũ nay ban lời Chúa. Bàn tay xưa nay
mở ra phúc âm. Ta là khởi đầu và cũng là kết thúc.
Hết một vòng đời Bách rồi đã đến thiên đường, chỉ còn Ngà đứng trên
kỷ niệm xưa nhìn lại tháng năm, thấy quãng đời đã qua chỉ là vết đau dài.
Lưu Na
06212016
*Nguyễn Đình Toàn, Hoa
Trên Muôn Cây.
No comments:
Post a Comment