Tạp bút
NGUYỄN ÂU HỒNG
Phạm Ngọc Lư
Biên cương hành
Phạm
Ngọc Lư viết truyện ngắn Tàn Đông vào tháng 12 năm 1970, đăng tạp chí Bách Khoa
số 344. Truyện lấy bối cảnh thị trấn Củng Sơn, quận miền núi Sơn Hòa, tỉnh Phú
Yên. Cùng thời điểm đó, tức tháng 12 năm 1970, tôi có đến BCH chi khu Sơn Hòa, biết
mùa đông năm ấy Củng Sơn lạnh, sương mù dày đặc, nhưng mãi đến khi đọc truyện
Tàn Đông tôi mới biết thêm chi tiết mây
mù và sương núi dày tối đến nỗi ban ngày mà học sinh đi học phải ghé quán mua
đèn sáp, đốt cắm trên từng dãy bàn dài:
…”Núi Cấm hiểm trở, núi Một vòi või, núi
Lá rậm rì… Và rừng Hỏa-thán thâm u, rừng Hoàng-long điệp điệp. Suốt tháng nay
chưa có một ngày nắng lớn, mặt trời không xé nổi mây, mây tụ tập càng lúc càng
dày, xuống thấp mãi, sát ngọn cây, đụng mái nhà, cho đến một buổi sáng mở cửa
ra: mặt đất mù mịt như có khói lan tỏa, sương kín dày, khí lạnh phả vào mặt,
xanh tái da.
…Học
trò đã đi học ngoài đường, ghé vào quán moi bạc cắc mua mỗi đứa một cây đèn sáp
đút vào cặp.
Kiền
tới trường lúc lũ học trò đang ngồi chờ thầy trong lớp. Chúng đốt đèn sáp cắm
trên từng dãy bàn dài, nơi bàn anh cũng có một ngọn cháy leo lét.”
Nhân vật chính của truyện là một
giáo viên tên Kiền, ở trọ cùng nhà với một cô y tá trẻ đẹp. Cánh đàn ông độc
thân ở thị trấn miền núi Củng Sơn, kể cả ông phó quận trưởng, xem cô y tá như một
món quà, ngược lại, cô bạn phải sống cảnh ủ ê cây-quế-giữa-rừng. Nơi biên cương
đất trích mù tối, họ thèm nắng, thèm đồng bằng nơi có nắng mượt như
lụa trên những đồng lúa non.
…”-Giả
thử chiều nay anh được trực thăng chở về phố đưa vào một quán ăn sang trọng nhất,
anh thèm món gì trước?
-“Nắng!”
Phương
tiện duy nhất để viên chức và binh lính từ quận lỵ Củng Sơn đi về đồng bằng là
trực thăng. (Thường dân thì chủ yếu là xe honda và xe đạp thồ, đi thăm thân
nhân hoặc đi buôn đều phải đóng thuế cho cả hai bên). Khi cùng Ban Cố vấn Quân
khu 2 (MR2 Advisory Committee) từ Pleiku đến BCH chi khu Sơn Hòa ở Củng Sơn, từ
trực thăng nhìn xuống tôi chỉ thấy một thung lũng chìm trong sương mù, một thứ
sương mù trắng đục và gờn gợn như nước lụt. Sông Ba mới đó còn lấp lánh ở Phú Bổn,
bỗng chốc tan thành mây khói và dường như sương núi và khói đá từ bốn phía núi
rừng cùng đổ dồn về vùng lòng chảo, phủ kin cây cối, nhà cửa. Viên phi công đã
quen với địa hình, cho trực thăng giảm độ cao, cánh quạt xới tung lớp sương dày
đặc, đến khi nhìn thấy đám sương mù có lẫn
khói màu thì đáp xuống. Từ bãi trực thăng vào hội trường chi khu, bên một đoạn
đường đất ngắn, lính nghĩa quân cả kinh lẫn thượng trực chiến ngồi dưới hố cá
nhân. Họ ngồi bất động trong sương lạnh, súng gác lên bao cát. Nhìn cảnh bố
phòng, tôi cứ nghĩ, ông chi khu trưởng khéo bày trò trình diễn chơi, đến khi đọc
Tàn Đông mới biết là họ chiến đấu thật, đã giữ vững chi khu sau một trận công đồn:
… “Bỗng một tiếng nổ vang ầm rung đất. Từng
tràng súng khác nổ tiếp theo, nghe quá gần, đâu dưới xóm chợ, càng lúc càng gần
thêm, phía trường học, trụ sở xã… Mé sông, ngoài vòng đai chi khu, đạn nổ rát
hơn. Súng cối bắn đùng đùng tới tấp, đạn bay vèo vèo trên đầu. Vách nhà rung
chuyển liên hồi…
Phòng
Kiền dạy sập một góc mái, gạch ngói nát vụn…Kiền ngậm ngùi ngó những đứa học
sinh ôm cặp đến trường như thường lệ…
Trời
lạnh, ba cái xác chết còn tươi bỏ nằm tênh hênh trên bờ ruộng. Đám đông hiếu kỳ
tản dần. Một người chỉ cái tử thi nhỏ thó, trẻ măng cỡ 15,16 tuổi nói giọng tiếc rẻ:
-Thằng
này là học sinh mới trốn theo nẫu, dại dột chết uổng. Thầy nhớ nó chứ?
Kiền
nhìn khuôn mặt thâm tái dính đầy máu cục bùn đất, lắc đầu bỏ đi.”
Có người trách tác giả Tàn Đông
đã xây dựng nhân vật Kiền có tính cách hơi khác thường: là thầy giáo, anh ta dửng
dưng trước cái chết oan uổng của học trò mình; là người cùng nhà trọ, anh ta dấm
dớ trước những biểu hiện tình cảm của cô bạn y tá xinh đẹp đang khát tình. Tôi
không đồng tình với nhận định này. Tôi còn cho rằng đây chính là mạch ngầm làm
nên bút pháp thâm trầm của Phạm Ngọc Lư . Thời ấy, tình cảm của thầy cô đối với
học sinh thường cũng bao la sâu rộng như tình thương của cha mẹ đối với con
cái. Nhưng, trong cảnh huống bi thương, nhiều bậc cha mẹ thường nhìn xác con rồi
buột miệng,“sanh
con há dễ sanh lòng”. Trách thầy
giáo Kiền mà chi! Tôi dám cả quyết cái tử thi nhỏ thó đó là học trò của thầy Kiền,
nhưng thầy nhìn
khuôn mặt thâm tái dính đầy máu cục bùn đất, lắc đầu bỏ đi . Trí nhớ của thầy rất tốt, nhìn tấm ảnh một thiếu
nữ do cô bạn y tá giới thiệu, anh chẳng những nhận ra đó là học trò mình bốn
năm trước mà còn nhớ cả tên, khiến cô bạn phải thốt lên,”Anh thật quỷ quái, nhớ
chi mà dai thế!”. Học trò cũ nay đã thành một cô gái, anh còn nhớ, thì một
học sinh trẻ măng cỡ 15,16 tuổi mới bỏ học trốn theo nẫu, sao anh lại không nhớ, nhưng anh lắc đầu bỏ đi vì một
lẽ oan khuất, “sanh
con há dễ sanh lòng”.
Về tình yêu, bộ tịch dấm dớ của
anh giáo Kiền chẳng qua chỉ là giả nai với sách lược tuy cũ nhưng hiệu quả “lửa gần rơm lâu ngày
phải bén”. Hơn nữa, lửa và rơm được xếp gần
nhau ở nơi thâm sơn cùng cốc. Và đây cũng là mạch ngầm làm nên nét duyên của
Tàn Đông.
Ở trọ chung một nhà, người phòng
trong người gian ngoài, sáng nào cô bạn y tá cũng dậy sớm nhóm lửa nấu nước để
anh giáo có nước sôi chích thuốc. Khi cô bạn ngã bệnh, “Anh xuống bếp bưng
cháo vào tận buồng nàng, pha nước khuấy sữa, xăng văng hỏi han về bệnh tình thuốc
thang liền miệng… Người bạn gái uốn cong mình dẫy dụa, mặt nhăn nhó đau đớn,
kêu khan:
-Đè
chặt tôi lại coi… Sao cứ bay bổng lên.
Kiền
e dè cúi xuống dằn tay bạn. Bất ngờ nàng ôm chầm lấy anh lôi ngả sấp lên ngực,
hơi thở nóng ran, hổn hển, dồn dập. Kiền nhúc nhích cựa nhẹ mình nhưng không
dám gỡ vòng tay bạn đang quấn quýt siết chặt trên lưng”…
Đây là một cách biểu hiện tình cảm
nam nữ được che đậy bởi một cơn bệnh. Còn đây là cái cách “hùn gió bẻ măng”,
ngay trong cơn binh lửa:
…
“Súng cối bắn đùng đùng tới tấp, đạn bay vèo vèo trên đầu. Vách nhà rung chuyển
liên hồi. Phòng trong người bạn kêu ơi ới. Kiền sực nhớ, bỏ chỗ núp dưới gầm phản
chạy vào, thở hổn hển, cứng miệng nói không ra tiếng. Anh lôi bạn xuống khỏi
giường, nàng thất thần ngã vào người anh mềm nhũn như kẻ vừa trúng đạn chết
không kịp ngáp”.
Sao không viết Nàng thất thần ngã
vào người anh mềm nhũn như
cọng rau héo, như cọng bún, như người không có xương sống… như gì chẳng được,
mà phải là như
kẻ vừa trúng đạn chết không kịp ngáp? Vì trận đánh đang diễn ra, đạn
bay vèo vèo trên đầu nên xán luôn? Chết không kịp ngáp như ba cái
xác chết trong đó có tử thi nhỏ thó, trẻ măng cỡ 15,16 tuổi, là học sinh mới trốn theo nẫu, dại dột chết uổng,
mà sáng ra thầy Kiền mới tận mắt
nhìn thấy. Phải chăng tác giả muốn nói, nơi Biên Cương Đất Trích tử khí bốc lên dày
như sương
thì tình yêu và cái chết gần liền nhau, oan khuất trong buổi Tàn Đông.
May
4, 2016
Nguyễn Âu Hồng
*Đất
Trích là đầu đề một bài thơ của Phạm Ngọc Lư đăng trên tạp chí Trình Bầy. Bài
thơ có cùng bối cảnh với truyện Tàn Đông: thị trấn miền núi Củng Sơn …“Bốn phía
rừng xanh mầu nước độc/ Đông tây nam bắc núi chận đường/ Một lũng đất bằng khu
chén nhỏ/ Trói đời ta vào chân Trường Sơn…Canh khuya cọp gầm vang núi Lá”.
Trong Tàn Đông “núi Cấm hiểm trở, núi Một vòi või, núi Lá rậm rì…”
*
Biên Cương là một bài hành đã thấu đến lòng người của Phạm Ngọc Lư: “Đây biên
cương ghê thay biên cương/ Tử khí bốc lên dày như sương… Gớm, gió Lào tanh mùi
đất chết/ Thổi lấp rừng già bạt núi non… Cô hồn một lũ nơi đất trích/ vỗ đá mà
ca ngông hát cuồng…”
No comments:
Post a Comment