Elena
Pucillo Truong
Bản
dịch của Trương Văn Dân
Hoa cúc. Zou Chuan
Nam
Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát... Nam Mô Đại Bi...
Tiếng
niệm Phật vang vang trong đầu bà, trong lúc bàn tay khẳng khiu chậm chạp lau
những phiến lá chuối, nhẹ nhàng xếp từng chiếc chồng lên nhau, như thể đang lần
tràng hạt...
Nam
Mô A Di Đà Phật...Nam Mô A Di ...
Bây
giờ thì năm tháng đã nặng trĩu trên vai bà, lưng oằn xuống và có lẽ chỉ có cái
nhìn tinh anh và sống động từ thời son trẻ là còn nguyên vẹn...
Tiếng
niệm Phật cứ nối tiếp đều đều như những chiếc lá lần lượt được xếp chồng len
nhau và hồi ức của bà cũng có lúc xen vào giữa những chuỗi âm thanh ngọt ngào
như tiếng hát...
Tay
bà cầm miếng vải trắng lau qua lau lại nhưng thi thoảng trên vành môi cũng hé
ra một nụ cười khi nghe tiếng cười trong trẻo của một tiểu ni... Ồ, vui làm sao khi nhìn những đứa bé lớn lên
dần, mạnh mẽ và vui tươi như những đoá hoa nở rộ lúc vào xuân và làm cho không
khí trong ngôi cổ tự thêm sinh động.
Ừ,
bao nhiêu mùa xuân trong đời mà bà đã trải qua... nhưng tuổi thơ của bà đến giờ
đã quá xa nên trí nhớ chỉ hiện lên như một lớp mây mờ. Nó chằng khác gì một đám
sương mù nên bà chẳng nhìn thấy hình bóng những người thân... Bà không còn nhớ
giọng nói ấm áp của người cha hay những lần được mẹ vuốt ve âu yếm... Người ta
tìm thấy bà dưới chân bức tượng đức Quan Âm, đặt trước sân chùa.
Một
đứa bé mới lên bảy mà đã bị người ta bỏ rơi như một miếng giẻ rách! Cả thể xác
và tâm hồn nó đều vấy máu. Có lẽ kẻ đã đày đọa và hành hạ bé vào phút cuối đã
bất nhẫn, một chút lòng thương hại đã lóe lên... nên đã buông tha, bỏ bé trước
cổng chùa...
Sự
quên lãng chính là một thứ quà tặng quý báu, vì sau nhiều ngày hôn mê, khi tỉnh
dậy bé không còn nhớ gì về những việc đã qua... Thế rồi cuộc đời nó như được
tái sinh, khởi đầu bằng sự đón nhận bình yên và thanh thản cùng với một khuôn
mặt dịu hiền của một vị sư bà, và lớn lên trong lời kinh, tiếng kệ, gõ nhịp đều
đều theo chuông mõ. Kể từ lúc ấy cuộc đời nó được che chở trong những bức tường
của ngôi cổ tự và được dạy dỗ rất nhiều điều. Dĩ nhiên mỗi sự vật đều có thời
gian của nó và tuy lúc mới vào bé có hơi cứng đầu và chỉ học vì tò mò nhưng dần
dà bé vui vẻ chấp nhận, biết tuân theo kỷ luật và nội quy của chùa, và về sau học
hành nghiêm túc nên còn ngộ ra bao điều thâm diệu.
Học
xong, thực hành...rồi cũng đến lúc phải dạy lại. Bà âu yếm nhớ đến những bàn
tay bé nhỏ níu chiếc áo nâu sòng của mình, những mái đầu tí hon trọc lóc, chỉ
chừa một lọn tóc trên trán mà trong những lúc tụng kinh, cứ đưa qua đưa lại,
lắc lư theo nhịp mõ.
Bây
giờ thì vài người trong bọn họ, sau nhiều năm, đã trưởng thành và sống bên cạnh
bà. Những lọn tóc đã được cạo láng của ni cô, những đôi mắt to và sáng nhìn
theo những động tác thuần thục và tự tin, lập đi lập lại vào thời gian trước
Tết, cái phút giây mà bà yêu thích nhất.
Bao
nhiêu việc cần chuẩn bị. Hằng năm, dân trong làng thường đặt chùa làm bánh
chưng và bánh tét và tất cả các sư cô trong chùa đều hoan hỉ tham gia: Những
người lớn tuổi lau lá chuối mà trước đó các ni cô trẻ đã rửa sạch, các ni cô
khác phủ lên lá một lớp gạo nếp đã được nấu sơ với lá dứa để tạo hương vị đặc
biệt và có được một màu xanh bắt mắt. Trên lớp nếp, một nhóm sư cô khác sẽ bỏ
thêm những khối trụ bằng đậu xanh đã chà vỏ và nấu chín để làm nhưn, có rắc
thêm một ít bột tiêu cho mùi vị thêm đậm đà. Đó là một dây chuyền ăn khớp và
nhịp nhàng, khi những hình trụ bằng lá chuối có bỏ đậu xanh và thêm nếp đã cuốn
lại liền được chuyển đến một nhóm sư cô có nhiệm vụ bó chặt và cột lại bằng
những sợi lạt.
Mọi
động tác đều liền tay và liên tục, giống hệt một đàn kiến chăm chỉ, ai nấy đều
có một nhiệm vụ rõ ràng ... thỉnh thoảng bà ngước mắt để quan sát họ. Bà thích
nhất là lúc mọi người làm bánh chưng, thích nhìn những gói lá được cẩn thận xếp
lại thành hình một chiếc hộp, giống như đang đóng lại chiếc hộp nữ trang sang
trọng có nhân bánh là đậu xanh.
Vui
vẻ và cẩn trọng, tất cả các thứ bánh được sắp xếp trong một chiếc nồi cao,
to rồi đậy nắp. Thi thoảng, ánh mắt của
bà ngừng lại trên vị sư cô này hay vị sư cô kia rồi dừng rất lâu đến người ngồi
gần bếp, có nhiệm vụ giữ lửa, cho thêm củi vào dưới đáy nồi.
Ánh
mắt bà cũng nhìn theo các tiểu ni loay hoay như một đàn bướm, chạy lăng xăng từ
nhóm sư cô này qua nhóm sư cô kia, tùy theo giai đoạn công việc, đem lá chuối
cho các người dồn nếp hay mang đậu xanh đã trộn và cuốn thành hình trụ... một vài tiểu ni còn đem những
nhiếc bánh chưng hay bánh tét đã buộc lạt, xếp gọn ghẽ vào khay để chờ
được đặt vào nồi để nấu.
Đó
là một niềm vui rất dễ lan truyền giữa những người trẻ tuổi.
Tuy
lúc này bà đã già nhưng bà không thể không nhớ là nhiều năm trước đây mình cũng
đã từng có một niềm đau vì không được làm mẹ. Thế nhưng về sau thì bà cũng hiểu ra là bà còn có
một niềm vui to lớn hơn nhiều: làm mẹ của hằng trăm đứa con. Bà đã nuôi dạy
chúng, đã từng cạo trọc những mái đầu tí hon, chỉ chừa một nhúm tóc nhỏ, và dạy
chúng vắt lên vành tai ; bà đã giảng giải cho chúng về sự huyền nhiệm của lẽ tử
sinh, của cả niềm đau và hạnh phúc. Nhưng không phải đứa bé nào về sau cũng ở
lại chùa. Vài đứa, sau khi được học
hành, lớn lên đã chọn một con đường khác. Tuy thế, họ vẫn thường quay lại chùa
để thăm bà và để được bà an ủi về những khó khăn từ cuộc sống.
Cũng
có những đứa trẻ mà về sau bà không có tin gì về họ, nhưng bà không lấy thế làm
buồn. Duy chỉ có một người thường làm bà bận tâm và lo lắng, như thể mẹ và con,
đó là Quảng Tiên, kể từ lúc cô bất ngờ bỏ đi vài năm trước.
Nam
mô đại bi Quan Thế Âm bồ tát... Nam mô đại bi... tiếng niệm Phật của bà có lúc
bị xen ngang bởi những hoài niệm. Cùng với thời gian bà đã nhận biết tầm quan
trọng của suy tưởng và của sự im lặng. Dĩ nhiên không dễ gì giáo huấn một đứa
bé hiếu động và rắn mắt như bà, nhưng bà may mắn có được một vị sư bà trí tuệ
và đã kiên nhẫn theo dõi và hướng dẫn bà kiềm chế cảm xúc và bình tâm hơn theo
quy luật của sự im lặng.
Sự
im lặng! Im lặng mở ra cánh cửa của vùng trí tuệ tiềm ẩn, không phán xét và cũng không phân
biệt, chỉ đơn giản giúp ta “nghe” được chính ta, ngoại cảnh và kẻ khác.
Đó chính là sự khám phá được kho tàng giống như lời Phật dạy: “Ai từ bỏ
được thế giới thì sẽ nghe được âm thanh của Niết Bàn”
Các
thiền sư đã chọn con đường tâm linh và sự bình an của họ chính là sự thanh thản trong tâm hồn sau khi đã chế
ngự và dập tắt được những ngọn lửa dục vọng. “Nghe được âm thanh của niết bàn”
chính là khi đạt được trạng thái hài hòa trong vũ trụ quan Phật giáo. “Hãy quên
bản thân và nghĩ đến tha nhân”, quên sự mưu cầu hạnh phúc cá nhân để chia sẻ và
hòa đồng với người khác.
Bằng
cách ấy bà đã ý thức được mục đích của mình và hiểu được lẽ sống chính là giúp
đỡ và che chở cho những đứa con không phải con mình. Nhưng điều quan trọng là
sẻ chia cái kho tàng ấy và, với bà, sự im lặng đã trở thành một điều thường
nhật trong đời sống hằng ngày.
Bà
còn hiểu rằng nhiều người đã đau khổ và không sống bình an bởi vì họ chẳng được
ai lắng nghe. Trong một thế giới mà ai nấy cũng la hét để biện minh hay che đậy
những lỗi lầm của mình ... hoặc ích kỷ đến nỗi chỉ muốn nghe giọng nói của mình
thôi, thì đâu còn thời gian để lắng nghe và thấu hiểu.
Có
lẽ vì thế mà thỉnh thoảng có nhiều vị khách hay người dân ở các làng lân cận
tưởng đến để ngoạn cảnh, thăm chùa, nhưng thực ra điều họ đang tìm là có thể
gặp một ai đó để trò chuyện hay tâm sự mà không sợ bị phê phán. Bà luôn ở bên
cạnh, im lặng, để lắng nghe họ thổ lộ, tuôn trào, than khóc... và rồi sau khi
bình tĩnh và nghĩ lại, chính họ đã tìm ra lời giải của vấn đề, một cách tự
nhiên mà không cần bà phải nói điều gì. Chỉ cần sự ngọt ngào hay một cái nhìn
chia sẻ, hơi ấm của một vòng tay là có thể an ủi và làm cho họ hiểu là phương án nào sẽ phù
hợp nhất.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật... tiếng
niệm Phật vẫn tiếp tục trong lúc bàn tay khẳng khiu của bà vẫn lau những phiến
lá chuối. Một năm mới lại sắp bắt đầu, mà có lẽ bà sẽ không còn có thể trụ đến
cuối năm. Các mầm bệnh ung thư từ tháng nay đang di chuyển trong tạng phủ của
bà. Bà quá mệt mỏi và trong lòng lúc này chỉ có một ý nghĩ là Quảng Tiên đang ở
nơi nào.
“
Sư Bà, Sư Bà”... bà có khách! Một tiểu
ni vừa từ cổng chạy vào vừa gọi to để báo tin. Đến nơi cô giúp bà đứng dậy rồi
dìu bà ra cổng. Một ni cô khác sẽ thế chỗ bà để lau lá chuối.
Bà
vừa đi khập khiễng vừa dọ dẫm bám vào bức tường trong hành lang được chiếu sáng
lờ mờ từ những bóng đèn dầu và cuối cùng đứng trước khung cửa mở ra vườn. Bà
thấp thoáng thấy hai bờ vai mảnh khảnh. Không, không thể nào lầm được! Có lẽ
chẳng cần nhìn bà cũng biết đó là người mà lòng bà đang mong đợi.
“
Mẹ ơi, mẹ ơi..! ”. Đúng là giọng nói của
cô ấy! Quảng Tiên! Đứa con lưu lạc đã trở về. Khi nghiêng người, bà còn nhìn
thấy một đứa bé mà cô gái đang bồng trên tay. Một niềm vui bừng cháy dâng lên
và bà lao tới, ôm lấy cô và siết mạnh.
Ôi,
đã bao lâu bà chờ đợi phút giây này và lòng bà đang trào dâng một niềm hạnh
phúc cho người con gái. Lòng bà bình yên và nhìn thấy tất cả niềm hạnh phúc và
yêu thương của nàng sáng rực trong đôi mắt. Chẳng cần nói lời nào nữa, dù có là
cái Tết cuối của cuộc đời, nhưng với bà đó là cái tết hạnh phúc nhất.
Elena Pucillo Trương
Sài
Gòn tháng 12-2013
Nguồn : tập san vhnt
Quán Văn
No comments:
Post a Comment