NGUYỄN LƯƠNG VỴ - 45
NĂM THI CA:
CHỮ NÉN HUYỀN ÂM TƯỢNG
SỐ NGÂN DÀI
Bài
của Tô Đăng Khoa
(Tư tưởng
và Tồn sinh là Một)
(On Nature - Parmenides)
Tôi đến với cõi Thi Ca và Tư Tưởng của Nguyễn Lương Vỵ (NLV) bằng
con đường rất tự nhiên của một độc giả yêu thơ, thường theo dõi thơ trên các tạp
chí và nhất là các trang mạng văn học nghệ thuật. Còn nhớ lúc đó vào cuối năm 2012, khi tôi
đang ngồi lướt mạng, tình cờ đọc được bài thơ “Hòa Âm Âm Âm Âm... ” của NLV
trên một trang văn học, tôi đã rất sững sờ và rung động vì ý tứ của bài thơ rất
lạ và cũng rất thâm sâu:
"…Mẹ đẻ đỏ loe tiếng khóc
Càn khôn tìm về ngay chóc
Vũ trụ đùn ngay một bọc
Âm âm âm
AAA
UUU
câm câm
câm
Chỉ biết tri âm là đây
Ngáp dài một cái tròn đầy
Xương tàn cốt lụi òa bay…"
Sau đó, tôi dùng Google để tra cứu thêm và được biết nhà thơ NLV
đang cư trú tại Quận Cam, miền Nam California, cũng là nơi tôi đang ở. Tôi đã mạnh
dạn email cho nhà thơ NLV để hỏi mua tập thơ "Tám Câu Lục Huyền Âm" của
ông vừa mới phát hành (theo giới thiệu trên các trang mạng), đồng thời, hỏi mua
thêm các tập thơ khác của ông đã phát hành trước đây. Ngay ngày hôm sau, tôi nhận
được hồi đáp của nhà thơ và đã có một buổi gặp gỡ rất chân tình. Kể từ đó, tôi
đã trở thành người em, người bạn vong niên rất thân thiết với ông. (Về tuổi đời,
tôi nhỏ hơn ông đúng 2 con giáp, cùng bổn mạng con Rồng).
Nhà thơ NLV đối đãi với tôi như một người anh, người bạn vong niên
rất chân tình, cởi mở. Mỗi sáng thứ Bảy hay Chủ Nhật, chúng tôi thường hẹn nhau
ở một quán cà phê để trò chuyện tâm tình. Dáng người NLV tầm thước, mái tóc đã
bạc gần hết, thường được che bằng chiếc mũ bê-rê trắng. Đôi mắt ông sáng hẳn lên và
giọng nói hào sảng, đầy hứng khởi mỗi khi đề cập đến Thi Ca và Phật pháp.
Càng gần gũi và thân thiết, tôi càng quý trọng ông, một nhà thơ rất
tài hoa nhưng sống ẩn dật. NLV sở hữu vốn kiến thức rất từng trải và uyên thâm
về triết học, tư tưởng, nhất là Phật học. Phong cách ông bình dân, giản dị đến
mức xề xòa. Ông đã ăn chay trường hơn 3 năm nay, sống kham khổ và đạm bạc ở một
căn phòng nhỏ trong một mobile home với một người bạn cũng độc thân như ông và
cũng là một nhà thơ nghèo. Nhớ có một lần gần đây, ông tâm sự với tôi: "Đã
trên 6 bó rồi, nên sống theo kiểu tri túc
là thanh thản nhất, vui nhất. Tu Chữ - Tu Thơ, giống như kiểu tu theo Phật
pháp. Nói chung là để tu Tâm, dưỡng Tánh, cố gắng không dính mắc điều gì nữa. Thế
là đại phước lắm rồi." Câu nói ngắn gọn, nhưng được hàm dưỡng một nội lực,
một sức sống rất thâm hậu.
Cách nay hơn một tháng, nhà thơ NLV báo tin cho tôi biết, rằng ông
đang chuẩn bị ấn hành tuyển tập thơ 45 năm (1969-2014) của ông và ông đã gửi
toàn bộ thơ trong tuyển tập nầy cho tôi đọc, với mong muốn tôi viết một số cảm
nhận để in vào sách làm kỷ niệm. Tôi nghĩ, đây cũng là do duyên tiền định không
giải thích được. Cũng do ông khuyến khích và hết sức chân tình (có lẽ do cảm mến,
thấu hiểu những nhận định về thi ca, Phật pháp của tôi trong những lần chuyện
trò, tâm tình), nên trước đây tôi đã mạnh dạn viết 2 bài viết ngắn về 2 tập thơ
"Năm Chữ Năm Câu" và "Năm Chữ Ngàn Câu" của ông trong năm
2014 và đã được ông đưa vào sách làm Lời Bạt. Lần nầy, tôi bày tỏ thật lòng với
ông: "Viết về thơ anh là một niềm vui thật sự với em. Nhưng phải nói thật,
khi đọc lướt qua tuyển tập 45 năm nầy thì em cảm thấy choáng ngợp. Sợ rằng
không đủ sức đâu anh à." Ông cười và nói: "Khoa cứ viết thoải mái.
Không khiên cưỡng, áp lực gì cả thì sẽ viết được thôi. Chủ yếu là sự cảm nhận về
thơ, không hàn lâm lý luận gì cả. Cảm nhận như thế nào thì viết như thế ấy. Tôi
muốn nhận nơi Khoa một tri tình, một cảm nhận về thơ tôi của một người bạn trẻ
thuộc thế hệ sau. Đó cũng là niềm mong mỏi duy nhất và là nguồn an ủi đối với
tôi rồi."
Tôi thật sự bất ngờ và kinh ngạc khi đọc những bài thơ của NLV viết
vào những năm 1969-1974. Nhất là 2 bài thơ "Nửa Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng"
(1969) và bài thơ "Âm Nhạc" (1970) của ông, tức là thời gian ông mới
17, 18 tuổi, nhưng hồn thơ thật bát ngát dị thường. Xin trích nguyên văn bài
thơ "Nửa Đêm Thức Dậy Nhìn Mây Trắng":
"Lung
linh hồn quê cũ
Mây trắng
phủ khắp trời
Nhớ trăng
khô hết máu
Muôn
trùng dặm núi ơi..."
"Hồn quê cũ", "mây trắng", hình ảnh xa xôi, diệu
vợi về nơi chốn quê nhà của nhà thơ, nhưng cũng có thể hiểu là nơi chốn nguyên
sơ của con người. "Nhớ trăng khô hết máu", "Trăng" và
"Máu", một cảm xúc không thể diễn tả bằng lời được thông qua cái
"Nhớ". Tiếp theo là tiếng thở dài "Muôn trùng dặm núi ơi...
". Tôi không phân tích hết được ý nghĩa bát ngát mênh mông của bài thơ,
nhưng đọc xong, tâm hồn bỗng trào lên một cảm xúc khó tả.
Xin trích tiếp đoạn mở đầu bài thơ "Âm Nhạc":
"Âm
nhập cốt
Âm binh
phiêu hốt tiếng tru
Ta tru một
kiếp cho mù mắt
Mù lệ đề
thơ để nhớ đời
À ơi! Rượu
đỏ hoàng hôn tắt
Ta dắt hồn
ta túy lúy chơi..."
Nhịp điệu của bài thơ ầm ào, thảng thốt, đúng như câu ông viết dưới
tựa đề của bài thơ: "Viết trên nền nhạc symphony số 5 của Beethoven."
Một bài thơ rất lạ, rất bạo liệt, sầu thảm nhưng bi hùng. Tôi nghĩ, đây lả một
bài thơ rất hay và rất hiếm của một người làm thơ lúc còn đang ở độ tuổi thanh
niên. (Bạn đọc có thể đọc nguyên văn bài thơ nầy trong tuyển tập).
Khi chuẩn bị cho bài viết nầy, tôi có email cho nhà thơ NLV, tạm gọi
là "phỏng vấn" ông quan niệm về thơ như thế nào, để làm "nền"
cho bài viết, thì nhận được email hồi đáp của ông, nguyên văn như sau:
"Câu hỏi của Khoa làm tôi nhớ đến một câu của nhà thơ Bùi
Giáng. Trong một cuốn sách nào đó của ông, tôi không nhớ rõ, đại ý, ông bảo ông
bắt chước "giọng" của Khổng Tử, viết rằng: "Con chim thì ta biết nó bay. Con cá thì ta biết nó lội. Thằng thi
sĩ thì ta biết nó làm thơ. Nhưng thơ là gì? Thì điều đó ta không biết."
Câu nói của nhà thơ Bùi Giáng thật ly kỳ thơ mộng, theo kiểu ẩn ngữ lai rai của
ông.
Từ tuổi thiếu niên, hình ảnh "máu me" đã sớm đi vào những
bài thơ đầu đời của tôi, nhất là khi mẹ tôi bị băng huyết, sẫy thai người em thứ
năm của tôi mới chừng hai ba tháng gì đó. Tôi nhớ rất rõ, vào một buổi chiều chạng
vạng, sau khi dùng đôi đũa bếp gắp cái hình hài lầy nhầy chưa tượng hình người
của em tôi, bỏ vào chiếc nồi đất nhỏ, phủ tro lên, đậy nắp lại, hai tay ôm chiếc
nồi đất ấy, đi theo sau ông Nội tôi ra khu nghĩa địa trong làng, gọi là Gò Chùa
để chôn cất em tôi. Chẳng biết vì sao, sau khi rời nghĩa địa trở về nhà, trên
đường đi, trong tâm trí tôi hiện rõ mấy câu thơ, "Mẹ băng huyết giữa đồng / Đứa em chưa kịp tượng / Trôi tuốt ngoài
thinh không / Chập chờn con bướm lượn." Mấy câu thơ nầy, mãi đến 3 năm
sau tôi mới viết ra trên giấy. Cho đến bây giờ, là bài thơ nằm lòng và là kỷ niệm
đẹp nhất trong đời làm thơ của tôi.
Tiếp đến, năm tôi gần 13 tuổi (1965), đang học lớp đệ ngũ tại trường
trung học kỹ thuật Đà Nẵng, cha tôi và người chú ruột của tôi bị chết thảm
trong một vụ án chính trị, hình ảnh "máu me" lại càng ám ảnh tuổi thơ
tôi một cách mãnh liệt hơn, nên khi chuyển vào Qui Nhơn (1967) để tiếp tục việc
học, tôi lại viết tiếp mấy câu thơ song thất lục bát: "Thơ là máu, kinh kỳ là nguyệt / Nguyệt đầy vơi ta biết làm sao /
Nguyệt cuồng trong máu lao xao / Nói chi sấm chẻ ngàn cao giữa mùa..."
Bài thơ khoảng chừng ba bốn khổ gì đó, đến nay tôi không nhớ hết, nhưng đại thể
là sự bộc bạch tâm sự của mình về thơ, về cuộc đời. Bây giờ đọc lại thì thấy
ngô nghê, cố làm ra vẻ "trịnh trọng" người lớn, nhưng thật tình, mỗi
khi nhẩm lại những câu thơ nầy, tôi vẫn còn cảm động vô cùng.
Năm 1987, lúc đã qua ngưỡng "tam thập" (35 tuổi), tôi viết
bài thơ "Thanh Ca". Bài thơ viết một mạch, khá dài, không dấu chấm dấu
phẩy gì hết, để bày tỏ quan niệm về thơ của mình, giờ đọc lại cũng thấy ngồ ngộ,
hay hay vì cái ý bảng lảng phiêu bồng của nó. (Bài thơ nầy, tôi cũng in lại
trong tuyển tập). Tiếp sau đó, cảm nhận về thơ gắn liền với số phận, số kiếp
con người giữa thời buổi "tang thương ngẫu lục", tôi đã viết:
"Ta
quí thơ như máu
Quí gạo
cũng tương đương
Thời nhiễu
nhương lộn lạo
Máu cũng
phí như thường... "
(Thiệt Tình - Âm Vang Và Sắc Màu)
Đến bây giờ, đã bước qua ngưỡng "lục thập" (63 tuổi), sống
nơi đất khách quê người, tôi chỉ còn biết thơ là nơi chốn để mình tu: Tu Chữ và
tu Thơ. Tu như vậy cũng là tu Tâm theo nghĩa của Phật pháp. Tu để chờ một chuyến
trở về cuối cùng cho một đời người. Như một vị thiền sư nào đó đã nói: "Ta từ hư không mà đến đây, rồi lại trở
về với hư không." Nhẹ nhàng. Thanh thản. Cố gắng không dính mắc điều
gì nữa. Vậy thôi!
Câu Khoa hỏi, thật tình tôi chẳng biết trả lời như thế nào cho thỏa.
Mỗi một người làm thơ, đọc thơ đều có quan niệm riêng, cách nhìn riêng về thơ.
Cả tỉ tỉ quan niệm, cách nhìn, cách hiểu, cách cảm nhận, làm sao tổng hợp cho hết
được. Chỉ biết rằng, một bài thơ, một câu thơ mình viết ra (tất nhiên, trước hết
là để bày tỏ nỗi lòng của mình), khi được công bố trên báo chí, hay các phương
tiện truyền thông khác, gặp được sự cộng hưởng, cảm ứng của người đọc thì xem
như mình được an ủi, hạnh phúc lớn lắm rồi. Còn quan niệm thơ là gì? Tôi xin
phép được quay trở lại câu của nhà thơ Bùi Giáng nêu trên là đề huề, vui vẻ,
thơ mộng nhất vậy."
Đọc thư phúc đáp của nhà thơ NLV, tôi nhận ra được tính xuyên suốt
và nhất quán trong thơ ông: "Máu" và "Âm" chính là định mệnh
của thơ NLV, cũng chính là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ NLV, kể từ lúc tóc
còn xanh cho đến lúc tóc đã bạc trắng như bây giờ.
Thật vậy, từ những bài thơ được sưu tầm lại (1969-1975) cho đến những
tập thơ "Âm Vang Và Sắc Màu", "Phương Ý", "Hòa Âm Âm
Âm Âm... ", "Huyết Âm", "Tinh Âm", "Bốn Câu Thất
Huyền Âm", "Tám Câu Lục Huyền Âm", "Năm Chữ Năm Câu",
"Năm Chữ Ngàn Câu", thơ NLV là một chuỗi dài vang vọng bất tận của
"Máu" và "Âm" bằng đủ loại tiết tấu: Lắng đọng, trầm hùng,
bi tráng, bi thiết, bạo liệt, dữ dội, tịch mịch... Tôi nhớ, nhà thơ Nguyễn Thị
Khánh Minh trong một bài viết, đã mô tả, ví von một cách hình ảnh, đại ý rằng,
mỗi tập thơ của NLV là một dòng chảy nhỏ của một con suối, để rồi hợp thành một
dòng chảy lớn của một con sông, trôi ra biển rộng muôn trùng. Tôi nghĩ, nhận
xét nầy phần nào đã nói lên được một cách khái quát về đặc điểm và tầm vóc thơ
NLV.
"Hòa Âm Âm Âm Âm... " là tập thơ sung mãn và phong phú
nhất của NLV, được ấn hành sau 5 năm ông định cư tại Hoa Kỳ. Khác hẳn với
"Âm Vang Và Sắc Màu", "Phương Ý" trước đây khi còn ở Việt
Nam, với tính cô đọng, thâm trầm - "Hòa Âm Âm Âm Âm... " đã hòa quyện
âm vang bi hùng, bi tráng một cách mênh mông, sâu thẳm của nhà thơ khi phải sống
cô độc, chịu nhiều cảnh ngộ bi kịch thương tâm nơi xứ người. Theo tôi, đây là tập
thơ "đỉnh cao" của NLV, hội tụ tinh túy tài hoa, với tư tưởng rất uyên
áo. Chính nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan, người bạn tri âm tri kỷ của NLV, trong bức
thư gửi cho bạn mình, đã viết một cách thảng thốt trước Thi Ca của NLV: “Chỉ thấy Tính-Linh, phải đâu là chữ!....Tôi
phải cảm ơn Vỵ nhiều lắm. Hãy cho tôi đọc nhiều thơ nữa đi, đọc suốt đời càng
thích. Vì “chữ” của Vỵ đâu phải chỉ là “chữ” không thôi, nó chính là TÍNH-LINH
của chúng ta, dù chỉ là loại Tính-Linh đầy những máu.”
Tiếp sau đó, liên tục các tập thơ "Huyết Âm" dữ dội, bạo
liệt tuôn trào; "Tinh Âm" lắng đọng, bi thiết; "Bốn Câu Thất Huyền
Âm" và "Tám Câu Lục Huyền Âm" càng lắng đọng và trầm sâu hơn;
"Năm Chữ Năm Câu" và "Năm Chữ Ngàn Câu" vi diệu và uyên áo,
thơ NLV đã thực sự đi đến "mùa hương chín" của Thi Ca và Tư Tưởng.
Đặc biệt, tập thơ "Huyết Âm", theo tôi, là tập thơ dữ dội
và bạo liệt nhất về sức Thấy và sức Nghe của nhà thơ. Ngay đầu tập thơ, nhà thơ
viết 4 câu thơ song thất lục bát, mỗi chữ đều viết hoa (có lẽ là để nhấn mạnh từng
chữ):
"Gió
Bức Bách Trong Tờ Giấy Lật
Thơ Muôn
Trùng Phơ Phất Nẻo Xa
Ngàn Thâu
Bích Huyết Chiêu Hoa
Ngàn
Trùng U Mộng Người-Ma U Hoài..."
Tuy không hiểu hết các ẩn dụ của nhà thơ trong 4 câu thơ trên,
nhưng khi đọc lên một cách chậm rãi, tôi cảm nhận được khí lực, thần thái của
thơ thật dữ dội, uyên áo, nói về thân phận của kiếp người.
Nhà thơ Lý Đợi, trong Lời Bạt cho "Huyết Âm" đã trích lại
giải thích ý nghĩa của "Huyết Âm" mà nhà thơ NLV đã giải bày: "Huyết, trong từ Hán Việt có hai nghĩa
chính: Máu và Lệ. Huyết Âm: Âm vang của Máu và Lệ, khóc cười đủ các kiểu cho nó
xôm tụ. Lấy hào cửu cửu làm gốc, nên đánh số từ 1 đến 81 (9 x 9 = 81), thêm một
bài ngoại tập: Huyết Âm Tây Tạng, như một tiếng thở dài giữa thời mạt
pháp." Trong đoạn cuối của Lời Bạt, nhà thơ Lý Đợi viết:
"Đọc
thơ là đọc giữa hai hàng chữ, giữa hai con âm, nhiều người đã nói như vậy, nghe
đà mòn tai. Nhưng quả là có những trường hợp, không làm như vậy không được.
Nguyễn Lương Vỵ đã tìm mọi cách để nhét những ưu uất của mình vào giữa hai con
âm. Tìm cách hướng người đọc vào những động thái bên lề, nhằm quên đi một thực
tại đang được dựng xây bằng máu và nước mắt.
Trong một
cách nào đó, đọc Huyết Âm cũng như là:
Dục cùng
thiên lý mục
Cánh thướng
nhất tằng lâu
(Muốn tận
cái nhìn ngàn dặm
Thì cứ
lên thêm một tầng lầu nữa).
(Vương
Chi Hoán)"
Như vậy đã rõ, Huyết: Máu và Lệ, "Huyết" và
"Âm" chắc là để minh chứng, minh giải thêm cõi thơ, hồn thơ NLV mà
thôi. Thơ trong "Huyết Âm" phần lớn là thơ ngắn, chỉ có đánh số mà
không có tựa đề, có khi rất ngắn nhưng dữ dội và quyết liệt bằng sức Thấy sức
Nghe xuyên thấu và kinh hoàng của nhà thơ:
"Róc
huyết âm
Đá khóc
Xanh
Tuyệt đối...
"
(# 1)
"Mẹ
huyền vi
Rung huyết
Đón tinh
Cha
A! Gái
huyền
Đẻ đái
Cái Người-Ma"
(# 5)
"Hoàng hôn muôn thế kỷ sau
Dứt khoát
Thơ
Còn
Đỏ
Au…"
(# 33)
Đến "Tinh Âm", thơ càng cô đọng
và vi diệu hơn: "Ôi con chữ máu rung / Ôi cái nghĩa kỳ cùng... " hay
3 bài thơ Nhị Tuyệt: "Nghĩa đời trong lá khô / Ý đời trong mầm biếc…"
- "Cồi máu phơi tiếng hú / Óc phơi ngọn nến mù…" - "Muôn chiều.
Chiều hết đời / Muôn đời. Đời phơi thây…" Thơ đã đạt đến "ý tại ngôn ngoại",
không thể nghĩ bàn, chỉ còn lại sự cảm nhận, rung động, cảm ứng của người đọc
thơ với thơ mà thôi.
Những tập thơ tiếp sau, "Bốn Câu
Thất Huyền Âm", "Tám Câu Lục Huyền Âm", "Năm Chữ Năm
Câu", "Năm Chữ Ngàn Câu", thơ NLV ngày càng đi sâu vào cấu trúc
tiếng Việt với nhiều thể loại thơ truyền thống, mà tập trung nhất, phong phú nhất
là 2 tập thơ "Năm Chữ Năm Câu", "Năm Chữ Ngàn Câu". Đây là
2 tập thơ thể hiện nỗ lực sáng tạo rất độc đáo và vi diệu của nhà thơ, với ngôn
ngữ thơ rất bình dị, trong sáng, đa phần là âm thuần Việt, nhưng ý tứ, tư tưởng
trong thơ rất mênh mông, sâu thẳm về sức Nhìn, sức Thấy và sức Nghe:
"nhìn trong thơ thấy đạo
nhìn trong đạo thấy thơ
nhìn trong thơ thấy gạo
nhìn trong gạo thấy mình
có-không thiệt rốt ráo"
"nhìn trong hạt thấy mầm
nhìn trong mầm thấy mộ
nhìn trong mộ thấy âm
nhìn trong âm thấy số
ôi tượng số điếc câm…"
hay là:
"thấy và nghe huyết tan
từ rất lâu trong chữ
chữ lòn trong nắng tàn
ta lòn trong mưa lụi
lượm lên phủi hú vang…"
(Trích Năm Chữ Năm Câu)
Khi tôi đặt vấn đề với nhà thơ NLV, vì
sao cấu trúc, thể loại trong thơ ông đa phần là thơ có vần theo kiểu truyền thống
mà ít thơ tự do hay không có thơ theo kiểu hậu hiện đại? Ông trả lời chẫm rãi
và chân thành: "Có thể là do tôi đã quen với cách sống kỷ luật, kham nhẫn
và chịu đựng với chính bản thân từ lúc thiếu thời. Càng sống, càng trải
nghiệm, thì tôi lại nhận ra rằng: Kỷ luật, kham nhẫn và chịu đựng cũng
chính là phương pháp tu tập tốt nhất để bản thân mình ngày càng được hoàn thiện,
thật sự đạt đến tự do, tự tại, được sống một cách trọn vẹn với cái-đang-là bất
tuyệt. Thiển nghĩ, thơ cũng vậy. Thơ có vần, tuân thủ theo luật tắc, hoàn toàn không
đồng nghĩa với gò bó, câu thúc, khô khan, cổ hủ mà như ý trên đã giải
bày cái diệu nghĩa của kỷ luật, kham nhẫn và chịu đựng đối với người mà
tôi tạm gọi là Tu Chữ, Tu Thơ. Thể loại, trường phái, cấu trúc trong thơ
không phải là vấn đề quan trọng, sinh tử của thơ, mà suy cho cùng, chính là hồn
vía của chữ, của thơ. Thông qua sức Thấy và sức Nghe, làm thế nào để hồn
vía của chữ, của thơ tạo được rung cảm cho chính mình, rồi sau đó cảm ứng đến
với người đọc. Đó mới là cái chính, cái cốt lõi, cái đáng suy nghĩ nhất trong
quá trình sáng tạo thơ. Chỉ xin mạo muội lạm bàn đôi điều như vậy thôi."
Tôi rất thấm thía về những giải bày của
ông. Cũng từ giải bày trên, có thể chiêm nghiệm thêm rằng, quá trình sáng tạo
thơ, cũng là quá trình tu tập về tâm thức, hiểu theo nghĩa tích cực nhất, nhân
bản nhất:
"Mỗi chữ mỗi kiếp cháy sáng rực
Thâm âm thâm u từ lâu nay..."
(Huyết Âm)
***
Đối với tôi, tuyển tập thơ 45 năm của
NLV là một trong những tác phẩm rất có giá trị của thi ca đương đại Việt Nam.
Tôi rất tâm đắc nhận định của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan về thơ NLV: "Chỉ có
Tính-Linh, phải đâu là chữ!". Thật vậy, càng đọc và chiêm nghiệm thơ NLV,
chữ thơ NLV không còn là những con chữ bình thường nữa, mà chữ thơ đã trở thành
hồn vía, thành Tính-Linh. Mỗi chữ thơ, câu thơ, bài thơ của NLV đã được viết ra
từ một tâm lực đầy kỷ luật, kham nhẫn và chịu đựng, với tình yêu tận hiến
cho thơ một cách tha thiết và mãnh liệt. Vì vậy, tôi nghĩ, nội lực thơ của NLV
ngày càng thâm hậu theo thời gian, với một hồn thơ mênh mông và sâu thẳm của
Nhân Bản và Minh Triết.
Tính-Linh trong thơ NLV là "Chữ nén huyền âm Tượng Số ngân
dài" (Huyết Âm). Sức "nén", sức cô đọng của chữ để trở thành
"huyền âm Tượng Số ngân dài" trước thử thách khắc nghiệt của thời
gian và sự quên lãng. Đó cũng chính là giá trị nội tại của thơ NLV, "Nghĩa
đời trong lá khô / Ý đời trong mầm biếc". Đó cũng chính là bản hòa âm bất
tuyệt của cái-đang-là, cái Thực Tại Hiện Tiền đang trôi chảy trong từng sát na.
Tôi thật sự cảm động khi đọc 4 câu thơ sau đây:
"Hỏi cái Mình ngồi đó
Có nhớ cái Ta xa?
Chợt quên rồi chợt nhớ
Thảng thốt giọt lệ
sa."
(Trích Năm Chữ Ngàn
Câu)
Câu
hỏi thoạt nghe qua, có vẻ rất bình thường, nhưng có mấy ai đã hỏi với chính
mình như vậy, để rồi "Thảng thốt giọt lệ sa"?!
Nhà
thơ nhẹ nhàng viết trong "Lời Thưa" tập thơ "Năm Chữ Ngàn
Câu", từ tốn nhưng đầy niềm bi mẫn, cảm hoài:
"Câu hỏi đã từ rất lâu, không lời vọng lại hồi đáp.
Câu trả lời vẫn còn
im lắng, ngất xanh trong những giấc mộng dị thường."
Câu hỏi của NLV cũng chính là câu hỏi của William Shakespeare đã đặt ra cho Tây Phương từ khá lâu theo lối trực tiếp: “To be or not to be, that is the question” (Tồn tại hay không tồn tại. Đó chính là vấn đề). Đó cũng là câu hỏi về “Being” mà Martin Heiddegger đã dành trọn đời để soi sáng ý nghĩa của nó. Nhưng để có thể tiếp xúc với câu hỏi của “Being”, đòi hỏi chúng ta cần có một thái độ thích hợp đối với ngôn ngữ, mà theo Heiddegger thì:
“As soon as we have the thing before our eyes, and in our hearts an ear for the word, thingking propers.” (Heiddegger - Buiding Dwelling Thinking).
Tạm dịch:
Câu hỏi của NLV cũng chính là câu hỏi của William Shakespeare đã đặt ra cho Tây Phương từ khá lâu theo lối trực tiếp: “To be or not to be, that is the question” (Tồn tại hay không tồn tại. Đó chính là vấn đề). Đó cũng là câu hỏi về “Being” mà Martin Heiddegger đã dành trọn đời để soi sáng ý nghĩa của nó. Nhưng để có thể tiếp xúc với câu hỏi của “Being”, đòi hỏi chúng ta cần có một thái độ thích hợp đối với ngôn ngữ, mà theo Heiddegger thì:
“As soon as we have the thing before our eyes, and in our hearts an ear for the word, thingking propers.” (Heiddegger - Buiding Dwelling Thinking).
Tạm dịch:
“Ngay khi một điều gì
phơi bày ra trước mắt, và trong tâm chúng ta biết lắng nghe ngôn từ (cảm ứng
cho chính nó), ấy là lúc tư duy khai phóng.”
Tôi
rất hạnh phúc là một độc giả rất yêu và quí thơ NLV, một người em, người bạn
vong niên của nhà thơ NLV. Bài viết nầy, tạm gọi là chút tình tri ngộ, tri
tình, tri ân cùng ông giữa cõi đời và cõi người rất mong manh, mộng ảo nầy. Và,
cũng giống như nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan, tôi rất mong sẽ được đọc thơ NLV nhiều
hơn nữa, vì thơ NLV "Chỉ thấy Tính-Linh, phải đâu là chữ!... nó chính là
TÍNH-LINH của chúng ta, dù chỉ là loại Tính-Linh đầy những máu."
Wesminster
- CA, September, 20.2015
TĐK
No comments:
Post a Comment