Trần
Trung Đạo
Crows gathering over Lost river road
Welcome to Lost river
Cách Boston ba giờ lái xe về phía Bắc có một địa điểm du lịch được gọi là Lost River. Thỉnh thoảng vào mùa lá vàng (foliage), trên đường đi xem lá rơi trên đỉnh White Mountain về, tôi và gia đình dừng lại ở Lost River.
Chúng
tôi có khi còn tham gia một trò chơi nhỏ gọi là tìm sông. Lý do, khi đứng trên mặt đất bạn chỉ thấy núi
rừng trùng điệp chứ chẳng thấy sông hay suối nào cả. Nhưng nếu áp tai vào mặt
đất để lắng nghe, bạn sẽ nghe tiếng nước
chảy róc rách. Và nếu bạn chịu khó đi tìm theo
những chiếc thang được đặt sâu vào lòng đá hoa cương, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy trong lòng núi, những con nước đang
chảy. Nơi này là những tia nước nhỏ rỉ
ra từ kẻ đá và nơi khác là một dòng nước mạnh hơn đang tuôn. Chúng chảy một
cách tội nghiệp, chảy một cách tức tưởi nhưng dường như không biết mệt mỏi là gì.
Người
ta bảo những con nước đó phát xuất từ
một dòng sông lớn nhưng chảy lạc và mất dần trong rặng White Mountain. Dòng sông tưởng đã chết. Nhưng không, sau
hàng trăm năm, những con nước nhỏ vẫn
rỉ, vẫn chảy xuyên qua kẽ đá hoa cương. Và như thế, theo thời gian, kẽ đá bị đục lớn hơn. Những con nước
nhỏ dần dần thông qua được, hội tụ vào
sông lớn để chảy ra Đại Tây Dương.
Đọc
bài viết ngắn của nhà văn Trần Hoài Thư
về số phận hẩm hiu của các nhà văn, nhà thơ miền Nam sau 1975, tôi
muốn viết vài dòng để chia sẻ với anh.
Thật ra, những ưu tư, thắc mắc của anh
dễ hiểu và cũng rất dễ trả lời. Văn học Việt Nam cho đến nay vẫn là văn học của kẻ thắng trận và lịch sử Việt Nam
vẫn đang được viết bởi kẻ thắng trận.
"Ai giải thích được lịch sử thì kẻ đó thắng" như một người nào đó đã nói, và trong cùng ý nghĩa, kẻ
thắng có độc quyền giải thích lịch sử.
Tôi cũng muốn nói với anh, văn học miền Nam, giống như dòng sông Lost
River kia, tưởng đã chết, nhưng không,
vẫn chảy trong chịu đựng âm thầm và bền
bỉ.
Nhớ
lại chuyện nước mình tháng 5 năm 1975. Khi đứng nhìn những tác phẩm văn học miền Nam, từ triết Tây của giáo
sư Lê Tôn Nghiêm cho đến triết Đông của
giáo sư Nguyễn Đăng Thục, từ truyện dài của các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn cho đến các tác phẩm
vừa in xong của các nhà văn thuộc nhóm Sáng Tạo, từ thơ Vũ Hoàng Chương cho đến
thơ Trần Tuấn Kiệt bị tập trung để đem đi đốt trong chiến dịch gọi là "Bài
trừ văn hóa đồi trụy", không ai
nghĩ văn học miền Nam còn một cơ hội nào khác. Nhưng rồi văn học miền Nam, đã
theo chân những người cầm bút, ra biển. Nhờ đó mà chúng ta có Tháng ba gãy súng, Đại học máu, Thép đen, Ra
biển gọi thầm, Lò cừ, Tôi phải sống
và hàng trăm, hàng nghìn tác phẩm có tên và không có tên khác. Tác giả
của chúng là những nhà văn miền Nam trước 1975, là những nhà văn vừa lớn lên ở hải ngoại, là những bác HO già ghi lại
tháng năm tù, là những cô gái ngồi nhớ lại chặng đường vượt biên đầy nước mắt
của mình. Bên cạnh giá trị văn chương, những tác phẩm đó còn chứa đựng giá trị
của máu xương. Người đọc, dù đồng ý hay
không, dù đứng bên này hay bên kia ngọn núi ý thức hệ, vẫn không thể phủ nhận
sự hiện diện của những tác giả và tác phẩm đó trong dòng văn học Việt Nam hải
ngoại như những chứng tích của một khoảng lịch sử đầy khắc nghiệt của dân tộc
chúng ta.
Tôi
thường nghe nhiều người tự nhận là những kẻ thức thời lớn tiếng: "Hãy quên đi quá khứ và hướng về tương
lai". Ai không biết điều đó, nhưng có tương lai nào mà không bắt đầu từ
quá khứ? Trong khoảnh khắc chúng ta đang
sống bao giờ cũng có bóng dáng của hôm qua và mầm mống của ngày mai. Xin đừng nhân danh tuổi trẻ khi
mình không còn trẻ nữa. Hãy để chính thế
hệ trẻ Việt Nam được lên tiếng nói, được đọc và được sống như tuổi trẻ với tất cả đặc tính của thế hệ
họ, nhiệt tình, nông nổi, bướng bỉnh và hướng thiện. Tại sao ngăn cấm các em
biết về quá khứ của cha ông chúng? Sang hay hèn, vinh hay nhục, công hay tội
của những người đi trước, các em đều nên biết và cần phải biết. Biết không phải
để sống vùi trong quá khứ nhưng để vượt qua, không phải để rồi giẫm lên
những hầm hố nhưng để khỏi đặt chân vào.
Một
số người cho rằng việc giới thiệu các tác phẩm nói về chiến tranh, tù ngục là
khơi dậy lòng thù hận trong tuổi trẻ một cách không cần thiết và không thích
hợp cho hướng phát triển của đất nước trong
thời đại mới. Những ý kiến đó, nếu không phát xuất từ ước muốn thỏa hiệp, có thể từ lòng tốt. Vâng, không một
người Việt Nam có lòng với đất nước nào
muốn đào sâu chuyện thù hận, ân oán, trái lại, ai cũng mong được sớm xóa đi những phân hóa, ngăn cách
trong lòng dân tộc Việt Nam. Nhưng thù hận không thể xóa bỏ bằng sự che đậy và
chia rẽ không thể lấp kín bằng lãng quên mà phải bằng thái độ dám nhìn thẳng
vào sự thật và nói lên sự thật. Câu ngạn
ngữ quen thuộc "Yêu nhau không phải chỉ nhìn nhau nhưng cùng nhìn về một
hướng" thoạt nghe có vẻ cải lương nhưng lại thích hợp với những người Việt
có lòng trong hoàn cảnh này. Người Việt có lòng đều thương nhau, đều nhìn nhau
nhưng chưa thật sự cùng nhìn về một hướng. Do đó, để "giải oan cho cuộc
biển dâu này", những người Việt
quan tâm đến văn học và đất nước Việt Nam, trước hết, cũng nên tập nhìn về một hướng, hướng của sự thật.
Tôi
được nghe kể lại chuyện một nhà nghiên cứu văn học trong nước thăm viếng thành phố Boston. Trong một buổi
uống trà riêng tư với các nhà văn Việt
Nam tỵ nạn ở đây, nhà nghiên cứu văn học này đã thú nhận, nếu không có dịp ra
nước ngoài ông ta sẽ không bao giờ biết những gì đã xảy ra bên trong những trại tù mệnh danh là
những "trại cải tạo". Và ông
cũng thố lộ một cách thành thật, nếu không đọc các tác phẩm của văn nghệ
sĩ Việt Nam ở nước ngoài, ông sẽ không biết có một dòng văn học gọi là văn học Việt Nam hải ngoại. Dòng nào chính
thống, dòng nào lai căng, dòng nào dân tộc, dòng nào phản dân tộc, là phán xét
của người đọc và của lịch sử. Đó không phải chỉ là chuyện ba mươi năm trước hay
ba mươi năm sau, mà có thể của trăm năm hay ba trăm năm tới. Nhà biên khảo văn học kia là một giáo sư văn chương, có
phương tiện, được phép đi đây đi đó mà còn ngạc nhiên như thế, 50 triệu thanh
niên Việt Nam sinh ra và lớn lên sau
cuộc chiến và chưa bao giờ có dịp ra khỏi Việt Nam, sẽ hiểu thế nào về văn học
miền Nam trước 1975 và ở hải ngoại hiện nay? Sự hiểu biết một chiều nào cũng dẫn đến ý thức cực
đoan, và ý thức cực đoan nào cũng là tai họa cần tránh cho đất nước mình.
Cái
giá để được ra biển của Lost River là phải đục xuyên qua rặng White Mountain
dày nhiều cây số và cái giá để được tiếp tục sáng tác của văn nghệ sĩ miền Nam là kiên nhẫn chịu đựng,
giẫm lên những bãi mìn biên giới, băng
qua núi rừng, vượt qua biển cả, sống sót từ các trại Cổng Trời, An Điềm, Suối
Máu, Hàm Tân. Ba mươi năm sau, như Lost River
vẫn chảy, nhịp tim của văn học Việt Nam hải ngoại vẫn đập đều nếu
chúng ta biết lắng tai nghe.
Trần Trung Đạo
(để nhớ 100 ngày
Nguyễn Xuân Phước qua đời và kỷ niệm với anh tại Lost River mùa thu 2013)
No comments:
Post a Comment