Trịnh
Y Thư
Jane Eyre – Charlotte Brontë
Trịnh Y Thư dịch
Nhã Nam xuất bản – 2016
Nhân loại ngày nay thừa hưởng không ít những
tác phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng là những công trình trước
tác của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến
nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá trị nghệ thuật lẫn
nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính
trị, xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào quên lãng. Nếu cần chúng
ta có thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don
Quixote của văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh và hoà bình của văn hào Nga
Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ
của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả
chúng ta, không riêng một ai, và đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh
thần của mọi sắc dân trên thế giới.
Trong số những kiệt tác ấy, có cuốn Jane Eyre của Charlotte Brontë. Khi mới
ra mắt công chúng khoảng giữa thế kỉ XIX nó đã gây trận cuồng phong trên văn
đàn dù tác giả là người phụ nữ không danh tiếng, không địa vị, không tiền bạc,
thậm chí phải dùng bút danh đàn ông để tránh thiên kiến không mấy tốt đẹp của
các nhà phê bình và người đời lúc đó. Từ đó cho đến tận ngày nay cuốn sách vẫn chiếm
chỗ đứng cao quý trên kệ sách của người yêu thích văn chương, được đưa vào giáo
trình các trường trung đại học, và đặc biệt được dựng thành phim, kịch – thậm
chí nhạc kịch Broadway – không biết
bao nhiêu lần mặc dù người ta thuộc nhẵn tình tiết cốt truyện. Điểm sau cùng
này quả là sự kiện kì thú hiếm thấy ở các tác phẩm kinh điển khác, chứng tỏ cốt
truyện có sức thu hút lạ lùng, được công chúng khắp nơi trên thế giới yêu thích
đến độ say mê. (Phim Jane Eyre đầu
tiên xuất hiện năm 1943 do hai tài tử Hollywood lừng lẫy thuở đó là Joan
Fontaine và Orson Welles thủ diễn vai chính; phim gần đây nhất trình chiếu năm
2011 do đạo diễn Cary Fukunaga thực hiện. Giữa hai thời điểm đó, chí ít có hàng
chục bộ phim khác kể cả phim tập làm cho màn ảnh nhỏ; theo tôi thì bộ phim tập trình
chiếu trên kênh truyền hình BBC năm 1983 do hai tài tử Zelah Clarke và Timothy
Dalton thủ diễn vai chính là đặc sắc và trung thực nhất với tác phẩm tiểu thuyết.)
Một cuốn sách có chỗ đứng trên tượng đài
văn học kì vĩ suốt bấy nhiêu năm và được người đọc xưa cũng như nay mến mộ như
thế, và nhân đánh dấu 200 ngày sinh của Charlotte Brontë nhà xuất bản Nhã Nam (Hà
Nội) vừa cho ấn hành một bản dịch Jane
Eyre mới, thiết tưởng nên có đôi lời về tác phẩm.
Bối cảnh
Trong cuốn Căn phòng riêng, tiểu thuyết gia người Anh Virgina Woolf
(1882-1941) trách Charlotte Brontë đã trút sự phẫn nộ của mình quá nhiều vào
tác phẩm Jane Eyre. Trước đó thi sĩ
kiêm nhà phê bình văn hoá Matthew Arnold (1821-1888) cũng gọi tác phẩm là đầy
tính “nổi loạn và phẫn nộ.” Thế nhưng nếu căn cứ vào câu văn nổi tiếng nhất
trong tác phẩm, ở chương cuối, “Thưa độc
giả, tôi đã kết hôn với ông Rochester” thì chúng ta thấy đây là một tác phẩm
tiểu thuyết “có hậu” và nó ám chỉ một hình thái kết cấu tiểu thuyết bảo thủ khá
phổ cập trong thời kì văn học Victoria ở Anh quốc: Sau những chia lìa đau khổ,
sau những trắc trở gian truân, nhân vật chính diện của tiểu thuyết bao giờ cũng
được đền bù xứng đáng với hạnh phúc trọn đời. Sự thực là, từ hai xu hướng nhận
định có vẻ trái ngược này, chúng ta có thể rút tỉa ra không ít những mâu thuẫn
thú vị. Thật lạ lùng khi một tác phẩm được nhận định cùng lúc là “đề cao nữ quyền”
và “chống nữ quyền”; cùng một cuốn sách, người bảo “cấp tiến” kẻ khác kêu “bảo
thủ”, người khen “độc sáng” kẻ khác chê “phái sinh sao chép”, người gọi “lãng mạn”
kẻ khác bảo “quá nghiêm khắc theo tinh thần Victoria.” Vân vân.
Tuy có khác nhau về nhận định, nhưng hầu
hết đều đồng ý, Jane Eyre là một cuốn
tiểu thuyết chứa đựng cảm xúc mãnh liệt, ngôn ngữ phong phú, tình tiết nhiều kịch
tính được biểu hiện bằng một phong cách văn học mạnh mẽ, táo bạo. Ngay cả vào
thời điểm cuốn sách ra mắt công chúng lần đầu năm 1847, giới phê bình và người
đọc lúc đó đã sớm nhận thức đây là cuốn sách khác thường, một cuốn tiểu thuyết
về phụ nữ của một nhà văn nữ được viết với tất cả phong cách khai phóng trong
ngòi bút mà cho đến thời điểm đó chỉ thấy ở những tác giả phái nam. Tác giả đã
can đảm vượt qua đường biên lễ giáo khắc nghiệt của xã hội Anh dưới triều đại nữ
hoàng Victoria để trải bày tâm hồn và sự đam mê của người phụ nữ, chối bỏ vai
trò phụ nữ tùy thuộc vào đàn ông, phê phán sự đạo đức giả của những kẻ mệnh
danh đại diện tôn giáo, phê phán cả những tệ đoan của xã hội tư bản sau cuộc
cách mạng kĩ nghệ đưa nước Anh lên hàng cường quốc. Tất cả những điều này hình
như vi phạm nặng nề nền nếp suy nghĩ của giới trí thức cũng như đại chúng đương
thời khiến có không ít tiếng nói phản bác nổi lên gọi cuốn tiểu thuyết là mối “nguy
hại cho nền lễ giáo đoan chính” hoặc những nguỵ luận tương tự nhằm bảo vệ mặt
tiêu cực của cái thành trì status quo
phong kiến, hủ lậu và khập khiễng từ muôn đời trước.
Virginia Woolf nói rất rõ trong tập tiểu
luận Căn phòng riêng xuất bản năm
1929: Không có chỗ đứng cho người phụ nữ viết văn từ thế kỉ XIX về trước trong
xã hội phương Tây. Không ai xem trọng thơ văn phái nữ. Đàn bà có
chút thiên tư dùng ngòi bút diễn tả tâm tư mình, ngay tức khắc, sẽ bị dán lên
người nhãn hiệu con mụ điên, thậm chí, con mụ phù thủy già nua xấu xí sống
trong ngôi nhà ma quái nơi bìa rừng bị mọi người ghê tởm, lánh xa! Người đàn bà
viết văn, làm thơ là người chịu đựng không những mọi bất công của xã hội tỏa
chiết lên đầu lên cổ mà còn chẳng bao giờ có đời sống gia đình bình thường, “bởi lúc nào bà cũng phải sống trong tình trạng
căng thẳng thần kinh và tiến thoái lưỡng nan, một tình trạng có thể dẫn đến cái
chết”. Hậu quả khó tránh là bà sẽ chết tức tưởi và thân xác bà bị vùi chôn
trong nấm mồ vô danh nào đó ngoài đồng nội. “Giả sử bà không chết, nhưng ngay cả thế những gì bà viết cũng sẽ bị bóp
méo và biến dạng, kết quả của những trí tưởng tượng lệch lạc và bệnh hoạn.”
Thành kiến này ăn sâu trong nếp nghĩ của
mọi người đến nỗi ba chị em nhà Brontë đã phải dùng bút danh đàn ông – Currer
(Charlotte), Ellis (Emily) và Acton (Anne) Bell – khi xuất bản thơ văn của
mình. Nhưng việc làm bất đắc dĩ này lại trở nên hào hứng và thú vị khi công luận
và báo chí bàn tán xôn xao về bút danh của ba chị em. Sự tiết lộ tính danh thật
của ba người sau đó chỉ làm ồn lên câu hỏi: Làm thế nào ba người phụ nữ bình
thường sinh trưởng trong một gia đình mục sư nền nếp tại vùng đồi núi hẻo lánh
xa xôi (Yorkshire) lại có thể viết được những tác phẩm với cảm xúc dữ dội, tàn
bạo đến vậy? Cuốn Agnes Grey của Anne
và cuốn Wuthering Heights (Đồi gió hú) của Emily được nhà Thomas
Cautley Newby xuất bản trước cuốn Jane
Eyre vài tháng. Đừng quên Emily và Anne cũng là hai tác giả gây tiếng vang
không nhỏ với tác phẩm của mình. Sự hiếu kì của đại chúng cộng thêm sự thổi phồng
của các kí giả thích loan tin giật gân đã khiến chẳng những ba chị em mà cả gia
đình Brontë trở nên huyền thoại.
Tài hoa mệnh bạc
Người cha trong gia đình là mục sư
Patrick Brontë (nguyên thủy là Brunty). Ông mở mắt chào đời tại Ireland trong một
gia đình nông dân nghèo khổ và có lẽ không ai trong nhà được ăn học ngoại trừ cậu
trai Patrick thông minh. Năm 16 tuổi Patrick đã là thầy giáo và sau đó được nhận
vào Cambridge học để trở thành mục sư, một thành tựu không tầm thường cho một
người Ireland nghèo. Năm 1812 ông kết hôn với cô Maria Branwell, một thiếu nữ
sùng đạo và đến năm 1820 hai người có cả thảy sáu mặt con: Maria, Elizabeth,
Charlotte, Patrick Branwell, Emily và Anne. Khi cô gái út Anne chưa tròn hai tuổi,
Maria Branwell Brontë bị ung thư và qua đời sau một thời gian dài đau đớn trên
giường bệnh. Dì Elizabeth Branwell của sáu đứa bé dọn vào ở hẳn với gia đình để
chăm sóc các cháu còn thơ dại, ngay sau đó bốn cô con gái lớn được gửi vào trường
nội trú Cowan Bridge. Trường học này, do mục sư William Carus-Wilson quản nhiệm,
là một cơ quan giáo dục thành lập để dạy dỗ con gái các mục sư nghèo. Carus-Wilson
chính là nhân vật Brocklehurst trong Jane
Eyre, và trường Cowan Bridge chính là Lowood, nơi Jane theo học sau khi giã
từ dinh Gateshead. Như Lowood được miêu tả trong truyện, Cowan Bridge là một
ngôi trường với những kỉ luật khắc khe đến độ phi lí, cuộc sống thiếu thốn mọi
bề, và các em nữ sinh bị gò ép trong một nền giáo dục giáo điều cứng nhắc. Mục
sư Carus-Wilson tin tưởng một cách mù quáng là để cứu rỗi linh hồn, các em nữ
sinh phải được uốn nắn theo tinh thần tôn giáo và luân lí triệt để. Kết quả, lưới
hái tử thần càn quét trường học, hai cô gái lớn Maria và Elizabeth được cho về
nhà khi bệnh lao phổi đã chuyển sang giai đoạn nguy kịch; hai cô chết ở nhà.
(Thời ấy bệnh lao phổi tương tự như ung thư phổi thời nay, kẻ mắc bệnh ít ai
thoát khỏi cái chết.) Charlotte và Emily thoát chết nhờ kịp thời về nhà, nhưng
cái chết của hai người chị đã gây mối thương cảm đau xót sâu xa trong lòng
Charlotte, nhất là chỉ một thời gian ngắn sau cái tang của mẹ. Charlotte hay
nói về người chị cả Maria như một cô gái tư chất hơn người, thông minh xuất
chúng, một thần đồng ở cái tuổi mười một non nớt. (Theo bà nhà văn Elizabeth
Gaskell, người viết tiểu sử Charlotte Brontë sau này, thì Maria chính là nhân vật
Helen Burns trong Jane Eyre.)
Kế tiếp là thời kì độc đáo đến lạ lùng
trong cuộc sống của chị em nhà Brontë. Bốn đứa trẻ – không hơn không kém, bởi ngay
cả Charlotte, người chị lớn nhất lúc này, cũng mới chỉ là cô bé gái lên mười –
tự học ở nhà, hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài, và bởi không biết làm
gì để chơi đùa tiêu khiển hằng ngày, bọn trẻ quay ra làm văn thơ! Bốn cô cậu hợp
tác viết kịch, truyện dã sử, thơ và tự đóng bìa những cuốn sách be bé xinh xinh
cất giữ trong nhà. Đây cũng là thời kì Charlotte tìm đọc những tác phẩm kinh điển
của văn học Anh: William Shakespeare, John Bunyan, John Milton, Sir Walter
Scott, thi ca của các thi sĩ Lãng mạn thế kỉ XIX, và dĩ nhiên Kinh Thánh. Trong Jane Eyre, chúng ta bắt gặp rất nhiều trích dẫn từ các danh phẩm của
các danh hào kể trên bên cạnh các văn thi sĩ khác; và đặc biệt Kinh Thánh luôn luôn là nguồn trích dẫn phong
phú, gần như mỗi chương sách đều có.
Thế giới thần tiên của bốn cô cậu trẻ chẳng
bao lâu chấm dứt bởi vì cuộc sống tương lai đòi hỏi phải có giáo dục và bằng cấp.
Năm 1831, ở tuổi mười lăm, Charlotte được gửi vào học tại trường Roe Head. Tại
đây do mặc cảm thiếu nhan sắc và quê mùa Charlotte cảm thấy không thoải mái.
Tuy vậy sau bốn năm học hành, từ năm 1835 đến năm 1838, Charlotte trở thành
giáo viên dạy học trong trường, và từ 1839 đến 1841 trở thành nữ gia sư trong
các gia đình quyền quý. (Rất giống tình cảnh của Jane tại Lowood và Thornfield;
khi viết về quãng đời này của Jane, có lẽ Charlotte đã thuật lại những chi tiết
thật đời mình). Trong xã hội nước Anh đầu thế kỉ XIX, một phụ nữ xuất thân từ
gia cảnh nghèo khó như Charlotte chỉ có thể đạt đến mức độ như thế trong phạm
vi nghề nghiệp. Thêm nữa, Charlotte đã khổ sở không ít vì thiên kiến xã hội không
mấy thuận lợi và tốt đẹp về phụ nữ làm văn thơ, cuộc sống cực nhọc không có thời
gian viết cũng khiến bà chán nản cùng cực. Người ta tìm thấy những dòng chữ như
sau trong nhật kí của Charlotte:
“Tất
cả những ngày tháng này tôi ở trong tâm trạng nửa khổ sở nửa mê hoảng, khổ sở vì
chẳng bao giờ tôi có thể làm xong việc gì mà không bị quấy rầy, gián đoạn; và mê
hoảng vì hoả ngục hiện lên như một thực tại rực sáng trong trí não tôi.”
Điều gì đã khiến một thiếu nữ hai mươi tuổi
bảo là mình như thất lạc trong “miền đất
tư tưởng thánh hóa chưa từng thấy bao giờ.” Phải chăng đấy là cảm xúc phẫn
nộ, trí óc nổi loạn của con người trước nghịch cảnh, trước xã hội phi lí và bất
công? Nên nhớ trong xã hội thời đó gia sư là cái nghề lương thấp, làm việc quần
quật suốt ngày và bị bạc đãi như gia nhân. Cả ba chị em nhà Brontë đều thử qua nghề
dạy học và chẳng ai thành công. Gia đình chỉ còn biết đặt hi vọng vào Branwell,
người con trai duy nhất. Branwell học nghề vẽ chân dung nhưng không đi đến đâu,
rồi lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề nghiệp khác mà vẫn đói kém. Cuối cùng cậu
lâm vào con đường nghiện ngập rượu chè, thuốc phiện và chết trẻ trong ô nhục. Cái
chết của người con trai là tấn thảm kịch cho gia đình vì ông mục sư kì vọng nhiều
vào cậu. (Những bức phác họa chân dung Branwell vẽ bà chị và hai cô em gái nữ
sĩ của mình chỉ thuộc hạng a-ma-tơ nhưng sau khi ba chị em nổi tiếng như cồn,
chúng được in đi in lại trên sách vở viết về ba người, một điều an ủi cho cậu.)
Cái chết của người em trai có nhiều điểm tương tự John Reed, người anh họ của
Jane trong Jane Eyre. Thêm lần nữa
cho thấy Charlotte đã đem bi kịch gia đình vào tác phẩm.
Charlotte tha thiết muốn theo đuổi nghề
văn. Năm 1837 bà thu hết can đảm biên thư cho thi sĩ Robert Southey
(1774-1843), kèm theo một số thơ mới sáng tác, xin thi sĩ “soi sáng” giùm con
đường văn chương của mình.Thư hồi đáp của Southey là một “huyền thoại” được
truyền tụng đến ngày nay:
“Văn
chương không thể là công việc trong đời sống người phụ nữ, và không nên biến nó
thành như thế. Người phụ nữ càng lo toan chu toàn những bổn phận chính đáng của
mình càng bớt thời gian nhàn rỗi suy
nghĩ chuyện thơ văn, cho dù chỉ để đạt đến một thành tựu nào đó và giải khuây.
Vẫn chưa có ai kêu gọi cô chu toàn những bổn phận ấy, và khi tiếng gọi ấy cất
lên cô sẽ bớt háo hức kiếm tìm danh vọng.”
Charlotte
phúc đáp ông thi sĩ như sau:
“Tôi
thú nhận vào buổi tối tôi có nghĩ ngợi này nọ, nhưng không bao giờ tôi gây phiền
nhiễu cho ai với những điều mình suy nghĩ . . . Tôi luôn cố gắng chẳng những quan
sát tường tận tất cả những bổn phận người phụ nữ phải chu toàn, mà còn dốc tâm trí
mình vào những công việc đó. Không phải lúc nào tôi cũng thực hiện một cách
đúng đắn, bởi đôi khi trong lúc dạy học hay may vá tôi ước ao được đọc sách và
viết; nhưng tôi cố tự chối bỏ mình . . . Một lần nữa xin cho tôi cảm ơn ngài đã
có lời khuyên chân thật. Tôi tin là tôi sẽ không bao giờ có tham vọng nhìn tên
tuổi mình in trên mặt giấy; giả sử có lúc nào đó tham vọng ấy nổi lên thì tôi sẽ
lấy ra đọc lại lá thư của ngài và kềm hãm nó lại.”
Qua lời lẽ trong thư phúc đáp của Charlotte,
chúng ta không khó khăn nhìn ra sự cay đắng và phẫn nộ trước thành kiến khó gột
rửa của người đời. Khi viết Jane Eyre,
Charlotte đã không che giấu cảm xúc bức bối ấy của mình, bà khẳng định giá trị
tính cách độc lập và vị trí người phụ nữ trong đời sống bên ngoài phạm vi gia
đình. Cuốn sách nêu ra các luận điểm về vai trò phụ nữ trong xã hội mà mãi gần nửa
thế kỉ sau mới bắt đầu được bàn tán sôi nổi để châm ngòi cho trào lưu “Nữ quyền”
như chúng ta biết ngày nay. Về điểm này, Jane
Eyre quả đã đi trước thời đại rất nhiều.
Tất cả nhờ lá thư của ngài thi sĩ
Southey!
Năm 1842 Charlotte và Emily sang
Brussels, thủ đô nước Bỉ, theo học tại Pensionnat Héger với hi vọng bổ túc kiến
thức chuyên môn (như Pháp văn) để về quê nhà mở trường dạy học. Mặc dù việc mở
trường sau khi về nước là một thất bại (không một học sinh nào ghi danh), thời
gian lưu trú ở lục địa đã ảnh hưởng sâu sắc lên tâm hồn và trí lự hai chị em,
nhất là Charlotte. Tại đây Charlotte yêu người thầy của mình, ông Constantin
Héger, một người đã có vợ. Và phải chăng Charlotte đã dàn trải tâm sự đau đớn của
mình qua mối tình của Jane với ông Rochester? Dầu sao chăng nữa, sau mấy năm học
chị em trở về đoàn tụ cùng gia đình ở Haworth, và với trí lực sung mãn, tâm hồn
sôi động, họ nhất quyết đi vào con đường làm văn.
Năm 1846, Charlotte khám phá ra những
bài thơ của Emily giấu trong ngăn kéo. Ba chị em dùng bút danh nam Currer,
Ellis và Acton Bell cùng xuất bản một tập thơ. Thoạt đầu Emily không chịu in
thơ mình nhưng bị Charlotte thuyết phục mãi, cả quyết giá trị nghệ thuật những
bài thơ, nên nhận lời tham gia. Tập thơ xuất bản, trước sau bán được vỏn vẹn
hai cuốn, nhưng ba chị em không nản lòng. Mùa hè năm 1847, vẫn ẩn giấu dưới những
bút danh xa lạ kia, Emily tung ra cuốn Wuthering
Heights (Đồi gió hú); và Anne, cô
em út trong nhà, không chịu kém thua chị mình với cuốn Agnes Grey (kể chuyện một cô giáo nghèo). Charlotte chậm chân hơn một
chút, phải đợi đến mùa Giáng Sinh năm đó mới xuất bản Jane Eyre.
Jane Eyre, ấn bản lần thứ nhất
Jane Eyre, ấn bản lần thứ nhất
ghi là: Tự truyện, biên tập bởi Currer Bell, 1847
Ba cuốn sách tuyệt hay ra mắt cách nhau
vài tháng là một biến cố văn học hiếm có dù là ở thời đại nước Anh sản xuất ra
lắm bậc vĩ nhân. Tuy vậy không người nào biết tác giả thật là ai, và ai nấy ngơ
ngác nhìn nhau rồi xôn xao bàn tán. Người bảo tác giả không phải là đàn ông (rất
đúng), người quả quyết ba “anh em” ấy thật ra chỉ là một người (sai bét). Ba chị
em giấu kín tung tích mình đến nỗi ngay cả người thân trong nhà và bạn bè xung
quanh cũng không hay biết. Cho đến khi có kẻ tung tin đồn rằng tác giả Jane Eyre là nữ gia sư trong gia đình
văn hào William Makepeace Thackeray (1811-1864) thì sự việc mới bắt đầu được soi
sáng. Thackeray là một tiểu thuyết gia lừng lẫy thuở đó, ông nổi tiếng với nghệ
thuật châm biếm, viết cuốn Vanity Fair
(Hội chợ phù hoa), cũng thuộc loại
kinh điển, nói lên cái phù phiếm, ruỗng nát cùng thói đạo đức giả của giới quý
tộc thượng lưu nước Anh lúc đó. Charlotte mến mộ văn chương ông nhà văn này lắm,
và mặc dù không quen biết, với ấn bản thứ hai của Jane Eyre, bà đã đề tặng cuốn sách cho ông với lời lẽ hết sức trân
trọng. Trước đó, ông nhà văn cũng có lời lẽ tán dương cuốn sách, trong đó có đoạn
nói ông đã chảy nước mắt khi đọc những đoạn viết về tình yêu. Vợ ông nhà văn mắc
bệnh tâm thần. (Sao giống Bertha, vợ ông Rochester trong truyện đến thế? Chắc hẳn
có kẻ xấu mồm độc miệng đặt câu hỏi này.) Vì thế mới có những lời thêu dệt đồn
đại vô cùng độc ác về gia thế và cuộc đời tác giả Jane Eyre. Bởi sống tách biệt với thế giới bên ngoài, những lời lẽ
không mấy đẹp ấy mãi về sau mới lọt đến tai Charlotte và bắt buộc bà phải bạch
hóa mọi chuyện để tránh tiếng xấu cho gia đình Thackery. (Thời đó, quần chúng
mê đọc những “tin nóng” về đời tư văn nghệ sĩ như ngày nay chúng ta bỏ cả giờ mỗi
ngày lên mạng đọc những chuyện “giật gân” hết sức tào lao và vô bổ của các ca
sĩ nổi tiếng, siêu sao màn bạc, cầu thủ bóng đá, vân vân.)
Bên cạnh những điều phù phiếm ấy, chị
em nhà Brontë nhận được khá nhiều lời khen chê từ giới học giả và phê bình. Nói
chung, ít ai quan tâm đến cuốn sách mỏng của cô út Anne, nhưng mọi người có vẻ
gay gắt, thậm chí phẫn nộ, với cuốn Wuthering
Heights của Emily, đa số lên án cuốn sách là vô luân. Riêng Charlotte thì may
mắn hơn. Nhà phê bình uy tín nhất thời đó, ông George Henry Lewes, thấy Jane Eyre là một chuyện tình “lạ lùng”
nhưng viết tiếp, “Đã lâu lắm rồi không có
cuốn sách nào khiến mắt chúng ta được thỏa mãn như thế khi đọc.” Nhà văn
Thackeray không tiếc lời ca ngợi, trong lá thư gửi cho nhà xuất bản ông bảo ông
không buông cuốn sách xuống được. Nhưng người chê cũng lắm, điển hình là Lady
Eastlake viết trên tờ Quarterly Review
số tháng chạp năm 1848. Sự chê bai phần lớn dựa trên quan điểm luân lí khắc nghiệt vốn là nền tảng văn hóa dưới triều đại
nữ hoàng Victoria, tính cách vô luân trong tác phẩm bị đem ra công kích dữ dội.
Họ cũng chê nội dung câu chuyện thiếu sự nhất quán và tính thuyết phục. Và nhân
vật phụ nữ chính diện thì quá “nổi loạn” đến nỗi không có đủ tiết hạnh cần thiết
cho một “mẫu mực phụ nữ đoan chính trong xã hội.” Lady Eastlake cũng bảo đấy là
một cuốn sách “thiếu nữ tính” và khẳng định tác giả nó phải là nam giới. Bà nói
thêm nếu tác giả là nữ giới thì đấy là người đàn bà “hoàn toàn chối bỏ xã hội những người cùng giới tính với mình.”
Không rõ ba chị em phản ứng ra sao trước
búa rìu dư luận, nhưng chắc chắn sự đau buồn vô tả đã đổ ập xuống mái nhà
Haworth với cái chết của anh con trai Branwell và ngay sau đó Emily rồi Anne
cũng lần lượt qua đời vì lao phổi. Cả nhà sáu người con chỉ còn mỗi Charlotte sống
sót ở lại dương thế chăm sóc người cha già trong cô độc. Càng buồn Charlotte
càng viết hăng. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản trong thời gian này, cuốn Shirley và cuốn Vilette đều đem lại nhiều thành công và tiếng vang tốt. Nhưng nỗi
buồn vì mất mát thì không thể nào hàn gắn, chưa kể nỗi buồn có thể sẽ phải làm
đàn bà “không chồng ở giá” suốt đời. Thư từ Charlotte viết trong giai đoạn này
cho thấy nỗi đau đớn của một kiếp người phù du, mệnh bạc.
Tuy thế những năm tháng sau đó cuộc sống
của Charlotte có phần tươi vui hơn vì càng ngày bà càng được đánh giá như một
tiểu thuyết gia có chân tài. Bà cũng hay thăm viếng London, tại đây bà gặp gỡ
những nhân vật sáng chói trong văn giới như nhà phê bình Lewes và chính
Thackeray. Bà cũng gặp nữ sĩ Elizabeth Gaskell. Hai người trở nên bạn chí thiết,
chính bà Gaskell là người viết tiểu sử Charlotte sau khi bà qua đời. Cuốn sách
tiểu sử đó cũng là một danh phẩm giá trị.
Năm 1854, Charlotte đột ngột lập gia
đình. Người bà lấy làm chồng là mục sư Arthur Bell Nicholls, trợ tế cho cha bà
trong giáo xứ và là người quen biết lâu năm với gia đình. Thoạt đầu cha bà phản
đối cuộc hôn nhân dữ lắm vì Arthur chẳng những nghèo kiết xác mà còn xấu trai,
kém thông thái, lại chẳng có tài năng gì về nghệ thuật. Charlotte cũng chẳng
yêu anh chàng mục sư cù lần ấy. Nhưng sự thật là Charlotte lúc nào cũng nghĩ
mình không có nhan sắc, thậm chí không ai yêu nổi. Chính lòng chung thủy và sự kiên
trì theo đuổi tình yêu trong nhiều năm của người đàn ông đã dần dà cảm hóa bà. Thế
là ở tuổi ba mươi tám, Charlotte từ bỏ những giấc mơ lãng mạn để trở thành một
người vợ bình thường và đôi khi bà ngạc nhiên thấy mình cũng có hạnh phúc.
Nhưng oái oăm thay, số kiếp oan nghiệt
không cho hạnh phúc ở lâu dài với người đàn bà tài hoa mệnh bạc. Thuyết “Tài mệnh
tương đố” không hẳn chỉ có bên trời Đông. Lấy chồng chỉ được vài tháng Charlotte
ngã bệnh nặng và nhắm mắt lìa đời vào tháng 3 năm 1855, lúc tuổi đời chưa quá bốn
mươi. Có nhiều giả thuyết về cái chết của Charlotte, như bà chết vì hư thai,
nhưng giả thuyết khả tín nhất vẫn là bệnh lao (như các chị em của bà) hay sốt
thương hàn (vốn hoành hành vùng đất nhà bà suốt thế kỉ XIX). Không có bằng chứng
nào cho thấy bà có thai lúc chết.
Cuộc cách mạng Nữ quyền
Lòng ngưỡng mộ của công chúng đối với
hai tác phẩm tiểu thuyết Wuthering
Heights của Emily và Jane Eyre của
Charlotte càng lúc càng gia tăng sau cái chết của hai người. Từ cuối thế kỉ XIX
trở đi, giá trị văn học của hai tác phẩm được giới nghiên cứu và phê bình đánh
giá một cách nghiêm túc hơn. Thế nhưng cho đến đầu thế kỉ XX, đa phần những nhận
định vẫn chỉ quanh quẩn ở chủ đề tâm lí học tổng quát, chẳng hạn như ý kiến của
nhà phê bình Thomas Moser hay nhà viết tiểu sử Helene Moglen, cho rằng Jane Eyre là hệ quả tất yếu bộc phát do
những “ẩn ức sinh lí” mà thủ phạm chính là nền luân lí Victoria bảo thủ. (Nghe tương
tự quan điểm của giới trí thức Việt Nam ta hồi đầu thế kỉ XX đối với thơ Hồ
Xuân Hương.) Về nội dung, công bằng mà nói, cuốn tiểu thuyết vướng phải một số nhược
điểm tiêu cực như sau: thứ nhất, quá nhiều những biến cố tình cờ, không thật (đặc
thù của văn chương Victoria); thứ hai, khuôn mẫu hình tượng anh hùng dựa trên
tính cách của chủ nghĩa Byron (người
anh hùng được lí tưởng hóa với những tính cách như: đa tài, nhiều đam mê, xem rẻ
người đời, khinh khi các lề thói xã hội đương thời, sống phóng đãng, hay nổi loạn,
có xu hướng tự huỷ, có thể chết vì tình yêu, vân vân); và thứ ba, các nhân vật
bị chi phối ít nhiều bởi yếu tố tôn giáo hoặc giáo điều. Đứng từ góc nhìn tâm
lí học cộng với tất cả những nhược điểm ấy đã không mở lối cho cuốn sách trở
nên một tác phẩm kinh điển hàng đầu.
Mọi chuyện biến đổi mau chóng sau khi Nữ
quyền luận trở nên phổ cập và được công nhận trong ngành phê bình văn học vào nửa
sau thế kỉ XX.
Nữ quyền là một phong trào xã hội khởi
đi từ cuối thế kỉ XIX ở hai quốc gia Anh, Mĩ với mục đích tranh đấu cho quyền lợi
người phụ nữ. Sang thế kỉ XX nó biến thành cao trào có tầm ảnh hưởng to rộng phủ
trùm lên nhiều địa hạt tư tưởng và lĩnh vực nhân văn khác nhau của đời sống
nhân loại. Riêng bên lĩnh vực văn học, vào nửa sau của thế kỉ, Nữ quyền luận
nghiễm nhiên trở nên một luận thuyết vững chắc, đề xuất bút pháp nữ (thuật ngữ Écriture féminine một hôm không biết từ
đâu bỗng xuất hiện khiến mọi người ngỡ ngàng). Dưới luồng sáng của Nữ quyền luận,
cách đọc tác phẩm văn học của các tác giả phái nữ, kể cả tác phẩm kinh điển,
cũng được giới học giả và phê bình đánh giá lại. (Đáng ghi nhận trong những nỗ
lực này là công trình bứt phá của Sandra Gilbert và Susan Gubar với cuốn The Madwoman in the Attic [Người đàn bà điên trên gác xép] xuất bản
năm 1979.)
Nhờ thế, người ta đọc Brontë với con mắt
mới mẻ hơn và có thể cảm thông trọn vẹn hơn về đường lối tác giả quyết liệt đặt
lại vai trò người phụ nữ và cố tấy xóa những định kiến bất công và lỗi thời. Kết
quả là sự thông hiểu có sắc thái hơn về bản chất những nghịch lí trong tác phẩm,
vốn là một tổng hợp gò ép khó hòa giải giữa sự nổi loạn của tâm hồn đối với xã
hội và chủ nghĩa bảo thủ tôn giáo. Trước đó, các nhà nghiên cứu văn học chỉ chú
ý đến nguồn đối lực giữa hai chủ thể trái nghịch trong tác phẩm mà họ đặt tên
là: Sống theo tự nhiên – sống được giáo huấn; đời sống riêng tư hướng nội – đời
sống cộng đồng hướng ngoại; cảm xúc đam mê – lí trí suy xét; lãng mạn chủ nghĩa
– duy lí chủ nghĩa; vân vân. Nhà nghiên cứu Nữ quyền luận giờ đây có thể xem
xét lại sự phân bố giản đơn và có tính công thức này để quy chiếu tầng ý nghĩa
của tác phẩm lên một chiều kích mới mẻ, phức tạp hơn.
Một phương cách để thấu hiểu cấu trúc của
Jane Eyre là nhìn nó dưới góc độ câu
chuyện của một con người bình thường đi kiếm tìm hạnh phúc, và trong lúc kiếm
tìm phải luôn luôn giữ thế cân bằng giữa hai lực đối kháng rất khó hòa giải là luân
lí và bản năng. Jane là một cô gái bình thường, bất hạnh, lại không có nhan sắc.
Điều này đi ngược lại quy luật bất thành văn của tiểu thuyết thời đó: người đàn
bà chính diện phải đẹp, ngọt ngào, hiền dịu. Ở đây chúng ta thấy ngay dụng ý của
tác giả. Jane chẳng những không đẹp (tư dung thường thường chẳng có gì đặc biệt,
thân người bé loắt choắt) lại còn có tính hay châm biếm và nói thẳng, thế nhưng
nhờ vào trí lự thông minh cộng thêm ý chí mạnh mẽ, Jane đã vượt qua bao nghịch
cảnh để đạt đến hạnh phúc. Phải chăng đấy là cái tinh thần sống và muốn sống
như con người, cái human spirit mà
muôn đời được ca tụng? Sống như một con người nghĩa là sống như một cá nhân với
tất cả giá trị và tình thương cá nhân đó xứng đáng thừa hưởng. Sự nổi loạn do
lòng phẫn nộ của Jane năm lên mười chẳng qua chỉ là hình thức biểu hiện (bởi
không biết làm sao khác hơn) của một đứa bé tha thiết muốn sống như thế. Kì thực,
trong suốt cuốn tiểu thuyết, niềm xác tín của Jane là: không nên xác định giá
trị con người dựa trên sự cao thấp khác biệt của nấc thang xã hội.
Ý thức Nữ quyền hiển lộ rõ hơn trong suy
nghĩ của Jane khi nàng chuẩn bị cho con đường tương lai từ cô gái học trò thành
nữ gia sư trong một gia đình giàu sang:
“Quả
là vô ích khi bảo người ta nên hài lòng với một cuộc đời bình lặng. Con người
phải luôn hành động, và nếu không tìm được sở trường để hành động thì họ phải tự
tạo ra. Hàng triệu người còn phải chịu số phận buồn chán phẳng lặng hơn tôi, và
hàng triệu kẻ âm thầm nổi loạn chống lại số phận. Không ai biết ngoài những cuộc
nổi loạn vì lý do chính trị còn có bao nhiêu cuộc nổi loạn nữa đang được ủ men
trong những khối sự sống này. Nói chung, phụ nữ thường được xem là điềm tĩnh,
nhưng cảm xúc của họ có khác gì đàn ông đâu. Họ cần rèn luyện những năng lực của
bản thân và họ cần môi trường để thực hiện hoài bão y như các đấng mày râu. Họ
khốn khổ vì sự kiểm soát quá đỗi cứng nhắc, sự giam hãm quá độc đoán. Đàn ông
mà rơi vào hoàn cảnh của họ thì cũng khốn khổ như thế mà thôi. Và nếu những đồng
loại được ưu đãi hơn ấy bảo họ nên tự giới hạn mình trong những công việc bếp
núc, may vá, chơi đàn hoặc thêu thùa thì quả là hẹp hòi. Còn những kẻ chỉ trích
hoặc chê cười họ khi họ tìm cách học hỏi hoặc làm nhiều điều hơn những gì mà tập
quán xưa nay vẫn bảo là cần thiết với giới tính của họ thì quả là ích kỷ.”
(Chương XII)
Từ đấy chúng ta có thể suy nghiệm thêm là
ý niệm Nữ quyền bàng bạc trong tác phẩm. Ngoài những câu văn trực tiếp đề cập đến
vấn đề Nữ quyền trích dẫn bên trên, nó còn được biểu hiện qua hành vi cô bé
Jane lên mười đánh trả lại thằng bé John Reed hung tợn, nó là thái độ ung dung
tự tại của Jane trước thái độ hống hách chứng tỏ quyền uy chủ nhân của ông
Rochester, và Jane chỉ chịu lấy ông Rochester sau khi nàng trở nên độc lập,
không tùy thuộc vào ai, kể cả người chồng. Có thể dưới mắt chúng ta ngày nay những
sự kiện này giản đơn một cách buồn cười, nhưng đừng quên suốt thời trung đại và
cận đại ở phương Tây nó là vấn đề cực kì nhức nhối cho phụ nữ, chúng ta không
nên xem thường nó, vì nó mà có không ít phụ nữ can đảm chết oan khuất trên dàn
hỏa thiêu, chết theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Một chuyện tình Lãng
mạn vượt thời gian
Một chuyện tình vượt thời gian! Nghe sáo
quá, phải không? Nhưng thú thật tôi không biết phải gọi chuyện tình giữa Jane
và ông Rochester bằng ngôn từ gì cho đúng. Oan trái? Oan khiên? Lạ lùng? Tội lỗi?
Đen tối? Vô luân? Thánh thiện? Thánh hoá? Đẹp? Kinh khủng? Khiếp đảm? Ghê rợn? Hay tất cả những tính từ trên chí ít đều đúng
nếu nhìn từ một góc độ nào đó? Chỉ biết một điều là cho đến ngày nay người ta vẫn
bị nó mê hoặc. Có cái gì kì bí, vượt lên trên mọi lí giải thông thường ẩn nấp bên
dưới cốt truyện và cá tính các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết khiến sức lôi cuốn
của nó vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ hay văn hóa nhân loại.
Chuyện tình giữa Jane Eyre và ông
Rochester bắt đầu từ chương XI, lúc Jane vào làm nữ gia sư trong gia đình
Rochester ở dinh Thornfield và chẳng bao lâu nàng đem lòng yêu người đàn ông chủ
ngôi nhà. Ông Rochester là một người đàn ông lập dị, thậm chí quái đản. Dưới mắt
nhìn của nhà tâm lí học thì đấy là khuôn mẫu hình tượng anh hùng dựa trên tính
cách của chủ nghĩa Byron. Ông có một
quá khứ cực kì đen tối, và cũng như Jane, bị ném ra khỏi ngôi nhà tình yêu, gia
đình. Mặt mày ông xấu xí, tính tình thô lỗ, ăn nói bộc trực, luôn luôn tỏ vẻ
khinh khi những thói rởm đời của đám quý tộc trưởng giả mặc dù ông cũng xuất
thân từ đó mà ra. Sau khi cuộc hôn nhân thứ nhất đổ vỡ, ông tự chọn một cuộc sống
phóng đãng chạy theo các thú vui nhục dục, dùng đồng tiền mua chuộc tình yêu
hay đúng hơn thân xác đàn bà.
Điều bất ngờ là, với một tính cách khác
thường như thế, Jane lại thấy “gần gũi” ông hơn. Jane hiển nhiên không phải là
nhân vật tiểu thuyết điển hình tràn ngập thị trường chữ nghĩa thế kỉ XIX. Chẳng
những sắc diện, nhân dáng nàng không có gì đặc biệt, nàng còn nhất quyết xem trọng
giá trị của cảm xúc tự thân, vốn thường bị xem là không thích hợp với hạng phụ
nữ thượng lưu cao quý. Jane nói với ông Rochester như sau khi nàng tin là sắp
phải xa ông:
“Cơn
xúc động mãnh liệt mà nỗi đau và tình yêu đã dấy lên trong tôi đòi lấn át tất cả
và đấu tranh để được làm chủ hoàn toàn, rồi khẳng định quyền chiếm ưu thế, quyền
được sống, quyền được nổi lên và cuối cùng là quyền thống trị: phải – và quyền
được nói.” (Chương XXIII)
Qua câu nói, tác giả đã một lần nữa quả
quyết xác nhận tính cách và cảm xúc (của người nữ) là những giá trị quan trọng,
chúng nổi bật bên cạnh tính phù phiếm và rỗng tuếch của đám công nương, tiểu thư con nhà quyền quý, trưởng giả (như
công nương Blanche, “tình địch” của Jane). Và khi ông Rochester cầu hôn Jane
thì tình yêu Lãng mạn có vẻ như mưu
toan lật đổ toàn bộ trật tự xã hội. (Xin hiểu từ “Lãng mạn” viết hoa ở đây
không có ý nghĩa như chúng ta hiểu ngày nay mà nên hiểu nó, ở chừng mực nào đó,
trong ngữ cảnh thi ca Lãng mạn của William
Blake hay âm nhạc Lãng mạn của Ludwig
van Beethoven.) Tình yêu Lãng mạn được
định nghĩa là sự hài hòa trong tâm trí, là “thấu hiểu nhau một cách sâu sắc”, là
vượt qua tất cả những định kiến của huyết thống, giai cấp và quyền lực như được
miêu tả trong cuốn Lòng tự phụ và thành
kiến của Jane Austen. Chấp nhận như thế, chúng ta sẽ không mấy khó khăn nhận
ra Jane là một “người tình Lãng mạn”
và những mộng ước Lãng mạn của nàng –
sâu sắc, tự nhiên và ngay thẳng – luôn luôn tương phản với tính nông cạn và ích
kỉ của các nhân vật nữ khác như công nương Blanche, vũ nữ Céline, thậm chí cả
cô bé Adèle. Họ là những người đàn bà dùng sắc đẹp và lời ngon tiếng ngọt tự
dâng hiến mình cho đàn ông để được người đàn ông đoái hoài, yêu thương.
Jane tuyên bố như sau về tình yêu với
ông Rochester:
“Ông
nghĩ tôi là cái máy ư? Một chiếc máy không cảm xúc có thể chịu đựng để miếng
bánh bị giật khỏi miệng và ngụm nước sinh mệnh bị hắt đi sao? Ông nghĩ chỉ vì
tôi nghèo khó, vô danh tiểu tốt, nhan sắc tầm thường và thân hình thấp bé thì
không có tâm hồn và trái tim ư? Thế thì ông nhầm rồi! Tâm hồn tôi, trái tim tôi
cũng phong phú không kém gì ông! Và nếu Chúa ban cho tôi chút nhan sắc và của cải
thì lúc đó tôi sẽ khiến ông khó lòng mà rời bỏ tôi được, giống như tôi bây giờ.
Tôi không nghĩ lúc này tôi đang nói chuyện với ông theo phong tục hay quy ước
xã hội, thậm chí cũng không phải bằng cái xác tục, mà là linh hồn tôi đang nói
chuyện với linh hồn ông, như thể hai ta vừa sang thế giới bên kia và đang đứng
dưới chân Chúa, bình đẳng với nhau, như lúc này đây!” (Chương XXIII)
Đấy là lúc ông Rochester ve vãn, tỏ tình
và cầu hôn Jane trong lúc hai người ngồi trong khu vườn rậm rạp cây lá đầy tình
tứ thơ mộng đằng sau dinh Thornfield vào một đêm hè tĩnh lặng chan hòa ánh
trăng. Câu nói của Jane là một ngoại lệ. Một người đàn bà khác, giữa khung cảnh
không gian lãng mạn như thế, chỉ biết ngả đầu vào ngực người đàn ông thôi.
Sự thật là, ngay sau khi tỏ tình và được
Jane ưng chịu kết hôn, ông Rochester đã dùng đủ mọi mánh khóe và quyền uy để
tìm cách khuất phục Jane, bắt Jane thần phục mình, nằm dưới tay mình như ông từng
làm với những người đàn bà khác. Thậm chí ông còn đem vàng bạc lụa là ra quyến
dụ Jane. Nhưng ông thất bại vì trước
sau như một Jane không hề bị những thứ ấy mua chuộc và nàng còn bướng bỉnh chống
lại mọi hành vi chứng tỏ uy quyền của ông đến nỗi ông phát cáu. Bằng thái độ
không khoan nhượng nhưng vẫn khéo léo ôn nhu, con người độc lập của Jane chiến
thắng mọi mưu toan thống trị của người đàn ông, một điều chưa từng thấy xảy ra
trong tiểu thuyết trước đó.
Đây cũng là lúc Jane mơ những giấc mơ
quái dị dự báo những điều chẳng lành sau đó. Và chuyện kinh khiếp Jane khám phá
(đúng hơn bị phanh phui) ngay ngày cưới của mình, đó là ông Rochester trong nhiều
năm nhốt bà vợ điên trong một căn phòng bí mật trên lầu ba của dinh Thornfield.
Dựng nên tình tiết độc đáo này, Charlotte Brontë đã giải quyết được vấn nạn tìm
lối thoát cho tình cảm lãng mạn của đam mê và hoan lạc mà có thể gọi là con đường
đạo hạnh của luân lí và truyền thống Cơ đốc giáo.
Tình yêu Lãng mạn có một liên hệ khá mơ
hồ với hệ thống đức tin Cơ đốc giáo khi giá trị nhân văn và cảm xúc cá nhân được
đem ra đối nghiệm. Cho đến thời điểm này, tình yêu và đam mê chế ngự tâm tư
Jane. Mặc dù linh cảm có cái gì không ổn đằng sau tình yêu của mình, nàng vẫn
bám víu lấy hi vọng con đường tìm kiếm hạnh phúc của mình sắp đến đoạn cuối.
Nhưng sự xuất hiện của Bertha điên loạn, bò dưới đất như một con thú hoang hung
tợn nhào đến cắn xé ông Rochester lúc ông bảo mọi người có mặt xung quanh “Vợ tôi đấy!” trong nỗi chua chát và khổ
đau cùng kiệt, đã làm sụp đổ mọi mộng ước
Lãng mạn trong tâm hồn Jane. Mọi chuyện vỡ lở, bí mật bao nhiêu năm bị
phanh phui, ông Rochester lại ngon ngọt dụ dỗ Jane dọn xuống miền Nam nước Pháp
làm lại cuộc đời với ông. Nhưng đời nào Jane chịu nghe lời, một buổi sáng tinh
sương nàng âm thầm bỏ dinh Thornfield đi về nơi vô định, chấp nhận mọi khổ ải,
đớn đau xảy đến cho mình sau đó. Jane bỏ đi không phải do lòng phẫn nộ vì bị lừa
phỉnh, nàng cũng không chút nghi ngờ tình yêu của ông Rochester, và nàng vẫn
yêu ông tha thiết. Sở dĩ nàng bỏ đi là vì lòng tự trọng một phần và phần khác chính
là luân lí và tôn giáo hiển thị dưới dạng thức vô thức tập thể từ ngàn xưa ăn
sâu tâm hồn mà có lẽ chính nàng cũng không hay biết. Charlotte Brontë đã không
cho cảm xúc vỡ tràn và bản năng dục vọng lấn át luân lí bởi làm thế là phá vỡ
thành trì truyền thống và tạo nguy cơ đảo lộn sự hài hòa và trật tự của xã hội.
Ông Rochester là người sống theo chủ
nghĩa Tự nhiên, ông không tuân theo mệnh lệnh của ai ngoài cảm xúc và bản năng
dục vọng của chính mình. Ông gạ gẫm Jane về sống ngoại hôn với ông ở một nơi
khác, tránh búa rìu dư luận. Ở thời đại chúng ta, điều này chẳng có gì đáng nói
và hầu hết đều được xã hội chấp nhận dễ dàng. Nhưng cuốn tiểu thuyết làm chúng
ta cảm phục đức tính mạnh mẽ của Jane khi nàng quyết chí gạt bỏ cảm xúc đam mê
để quay về những nguyên tắc truyền thống mà nàng cho là phổ quát, bởi nếu không
thì cuộc sống này chắc sẽ tan rã mất thôi.
Đối lực giữa cái “tự nhiên” và luân lí
truyền thống tôn giáo đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của nhân loại –
Tây cũng như Đông – nhất là trên bình diện văn học. Trong Jane Eyre, cái “tự nhiên” có vẻ như được đặt nặng hơn, được ưu ái
hơn, ở mặt tâm lí học lẫn mĩ học, và đó là lí do tại sao cuốn tiểu thuyết bị
các nhà đạo đức (giả) đương thời lên án. Cái “tự nhiên” liên minh với trí tưởng
tượng, cảm xúc, xung lực nội tại, dục vọng, tính phản kháng, và cái tôi, tất cả
nhất tề đứng lên chống lại cái duy lí. Cái “tự nhiên” dẫn đến Lãng mạn chủ nghĩa,
đến “cái tôi” và “cảm xúc của tôi.” Về điểm này chúng ta không ngạc nhiên vì Jane Eyre xuất hiện gần như cùng thời với
hội họa Eugène Delacroix và âm nhạc Frédéric Chopin, thời đại hoàng kim của
Lãng mạn chủ nghĩa.
Cái “tự nhiên” đúng hay sai, cho đến
ngày nay, vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Cuộc sống của Jane bước vào khúc quành
mới khi nàng lưu lạc đến Marsh End. Tại đây, nàng ngẫu nhiên gặp những người
thân trong dòng họ và ngẫu nhiên kế thừa một gia tài kếch sù do ông chú nàng ở
nước ngoài qua đời để lại. (Ngẫu nhiên
là một thuộc tính quen thuộc gần như cố hữu trong dòng văn chương Victoria.) Nhưng
bên cạnh sự may mắn không ngờ đó, một lần nữa nàng lại phải đối đầu với cái đối
lực bất khả hòa giải giữa tôn giáo và cảm xúc. Người anh họ của Jane, một mục
sư trẻ tên St. John Rivers, cầu hôn nàng (thời đó xã hội Anh cho phép người
trong họ lấy nhau), nhưng anh muốn lấy Jane làm vợ không phải do tình yêu mà chỉ
vì muốn Jane trở thành người trợ tá đắc lực cho anh trong việc phụng sự truyền
giáo. Con người anh tốt lành nhưng khô cứng, tình cảm che giấu, thậm chí khó
thương. Anh và ông Rochester là hai thái cực, ông Rochester muốn tình yêu nhưng
không có hôn nhân, ngược lại, St. John muốn hôn nhân nhưng không có tình yêu,
và dĩ nhiên Jane khước từ cả hai. Cả hai đều phơi bày tham vọng người đàn ông
muốn “làm chủ” cuộc đời người đàn bà, và sự phấn đấu của Jane trong gọng kìm
hai người đàn ông đó là cuộc chiến đấu muôn đời giữa ý chí và tự ngã, ý chí của
người nữ, tự ngã của người nam. Cuộc chiến đó kéo dài cho đến ngày nay, không hề
ngưng, và có lẽ nó vẫn tiếp diễn cho đến khi loài người không còn hiện diện
trên mặt đất này nữa.
Cuối cùng Jane quay về ông Rochester
vì lúc đó nàng là người độc lập và ông Rochester “ngang hàng” với nàng. (Ông
nay là người tàn phế, mắt mù, do trận hỏa tai gây nên bởi bà vợ điên một đêm nổi
lửa đốt tòa lâu đài rồi nhảy từ sân thượng xuống nền đá chết nát thây.) Cuối
cùng hạnh phúc đến với Jane. Charlotte Brontë đã cho một kết luận “có hậu” vào
cuốn tiểu thuyết.
Quy ước không là luân
lí . . .
Jane không chịu trở thành tình nhân của
ông Rochester bởi nàng tin tưởng nhiệt thành vào lòng tự trọng và giá trị luân
lí. Nàng cũng không chấp nhận lời cầu hôn của St. John Rivers bởi nàng không thể
kết hôn với người đàn ông không có tình yêu với nàng. Hai người đàn ông, hai
thái cực, một bên phóng đãng, hung bạo, có tình yêu và một bên nghiêm túc, nệ
giáo, không có tình yêu. Jane không tin theo ai, nàng chọn trung đạo và đề xuất
một căn bản luân lí đạo đức biểu hiện bởi tam giác: tình yêu, tính cách độc lập
và lòng tha thứ.
Trong suốt cuốn tiểu thuyết, Jane lúc
nào cũng gắng sức duy trì sự quân bằng giữa bổn phận luân lí và hạnh phúc trần
gian. Nàng ghê tởm tính cách đạo đức giả của mục sư Brocklehurst. Đối với St.
John Rivers, tuy mến thương và cảm phục như một người anh cả nhưng nàng không hề
thấy rung động trước tình cảm khô cứng của người mục sư trẻ tuổi và điển trai ấy.
Chúng ta hiểu tại sao. St. John là môn đệ trung thành của thần học Calvin, và
lòng xác tín của anh có những chỗ bất xứng, không phù hợp tâm hồn Jane, một tâm
hồn luôn theo dõi nhịp đập của trái tim nhưng không bao giờ giẵm xuống bùn lầy
của cảm xúc. Trong thời gian theo học ở Lowood, Jane thương mến người bạn gái
tên Helen Burns, nàng cảm nhận được tâm hồn thánh thiện như thiên thần của Helen,
nhưng tấm lòng độ lượng không bến bờ của Helen – tha thứ ngay cho kẻ trừng phạt
và hành hạ mình một cách vô cùng tàn nhẫn và phi lí – chỉ khiến Jane bâng
khuâng, ngờ vực. Hình như Jane không trung thành và tuân giữ những giáo điều Cơ
đốc giáo một cách tuyệt đối và mù quáng. Đúng ra nàng tin tưởng vào giá trị
luân lí truyền thống. Đó là lí do vì sao nàng bỏ dinh Thornfield ra đi trong nỗi
đau đớn tột cùng sau khi biết ra sự thật ông Rochester bao nhiêu năm nhốt bà vợ
mình trong căn phòng kín. Cũng bởi giá trị luân lí truyền thống này, Jane chỉ
chịu lấy ông Rochester sau khi vợ ông chết.
Tôn giáo được dùng để hòa giảm suy
nghĩ cùng hành vi của Jane trong những lúc tâm trí xung động, hay lâm vào cảnh
huống khốn cùng, nhưng không bao giờ nàng đè nén hoặc chôn vùi bản ngã chân xác
của mình. Đọc cuốn sách chúng ta thấy tác giả trích dẫn rất nhiều Thánh Thư, đa
phần là Phúc Âm Chúa Jesus Christ, nhưng đừng vội kết luận bà là người nệ giáo.
Ngược lại là đằng khác. Dù sinh trưởng trong một khí hậu thấm đẫm tinh thần Cơ
đốc giáo, bà không mù quáng tin theo các tín điều bị các đầu óc lệnh lạc diễn
giải một cách cứng nhắc, hẹp hòi. Trong lời tựa ấn bản thứ hai của Jane Eyre, Charlotte Brontë khẳng định “quy ước không phải là luân lí” và “sự nguỵ tín tự cho mình đúng không đồng
nghĩa với tôn giáo.”
Quan điểm ấy của bà,
chúng ta nên hiểu như thế nào?
Nó chỉ có thể là: Bất kì một học thuyết
hoặc chủ thuyết hẹp hòi nào của con người, với hậu ý và thâm ý nâng cao hay đem
lại phúc lợi cho một thiểu số ưu đãi, đều không thể thay thế đức tin thuần khiết
vào sự cứu chuộc muôn loài của Đấng Christ. Bà kinh tởm tính đạo đức giả, bà
khinh bỉ những kẻ nhân danh đức tin hoặc nguỵ tạo chân lí để củng cố địa vị và
mưu đồ những việc ích lợi riêng tư. Nhân vật điển hình cho hạng người này trong
Jane Eyre là mục sư Brocklehurst. Ông
là giám đốc trường Lowood, nơi Jane theo học từ năm lên mười. Ông đem Phúc Âm ra
nguỵ luận để răn đe và trừng phạt đám nữ sinh bé bỏng, yếu đuối, thường xuyên
đói khát. Tính đạo đức giả của ông biến thành câu chuyện khôi hài hôm vào thăm
trường thấy các nữ sinh tóc thắt bím, ông đã bắt các cô bé phải cắt cụt cái bím
tóc ngay tại chỗ, vừa lúc bà vợ ông và hai cô tiểu thư bước vào đứng bên cạnh, tóc
tai chải gỡ cầu kì, xiêm y lộng lẫy như hoàng hậu, công nương.
Có không ít những kẻ như ông
Brocklehurst ngoài đời, bất kể thời gian không gian nào. Thực ra tác giả dựng
nhân vật này dựa trên tính cách một nhân vật có thật. Đấy chính là mục sư
William Carus Wilson, người sáng lập trường Clergy
Daughters’ School ở Cowan Bridge, nơi chị em Brontë theo học thuở nhỏ.
Tương phản với Brocklehurst là cô nữ
sinh Helen Burns mười bốn tuổi, người trở thành bạn chí thiết của Jane ngay từ
những ngày đầu ở Lowood. Hiếm có người như Helen hiện hữu ngoài đời, một cô gái
thông minh xuất chúng, đức độ, lòng vị tha không ai bằng. Chị tin vào tinh thần
bác ái tuyệt đối, “bị tát má này đưa má khác” của Cơ đốc giáo bằng cách thương
yêu kẻ làm mình khổ. Lòng tin chân thành của chị vào Thượng đế khiến chị bình
thản đón nhận cái chết đến với chị. Charlotte vẽ nhân vật Helen quá lí tưởng.
Jane thán phục đức tính nhẫn nại và chịu đựng của Helen, cả trí lự thông minh,
nhưng cô bé Jane lên mười lúc đó là khá hoang mang, cô bé không rõ những gì
Helen tin tưởng có phù hợp tâm hồn mình hay không. Jane hình như không theo đuổi
một luận thuyết đặc trưng nào, nàng sùng kính Thượng đế và tin vào Đấng Toàn
Năng nhưng giáo điều thì nhất quyết không có chỗ đứng trong tâm hồn nàng.
Dịch Jane Eyre
Khi được phát thanh
viên Thanh Hà của đài RFI Tiếng Việt hỏi do cơ duyên nào khiến tôi dịch Jane Eyre thì tôi đã trả lời chị như
sau: “Cũng như những người yêu sách vở khác, tôi mê Jane Eyre từ khi còn đi học, nhưng không bao giờ có ý định dịch
sang tiếng Việt, cho đến khi nhà xuất bản Nhã Nam ở Hà Nội đề nghị cộng tác dịch
tác phẩm bất hủ ấy. Tôi đồng ý ngay và kết quả là cuốn sách ra mắt độc giả vào
tháng đầu tháng 9 năm 2016 này. Tôi nghĩ đấy là cơ duyên, và tôi có duyên với Jane Eyre.” Vâng, tôi nghĩ Jane Eyre đã tìm đến với tôi.
Đối với tôi, dịch Jane Eyre vừa dễ vừa khó. Dễ vì đây không phải là một tác phẩm tiểu
thuyết đầy màu sắc triết học siêu hình khó đọc. Nhưng khó vì ngôn ngữ văn học của
tác phẩm là loại Anh ngữ của dòng văn học Anh quốc thế kỉ XIX. Có những từ ngày
nay không mấy ai sử dụng nữa, hoặc nếu còn thì lại hiểu theo một ý nghĩa khác.
Điểm khó khăn khác cho người dịch cũng như người đọc là sự phong phú của chữ
nghĩa, sự xa lạ của cảnh vật, sinh hoạt, tập quán đối với đa phần độc giả người
Việt. Tác phẩm cũng trích dẫn nhiều từ Kinh
Thánh và các tác phẩm văn học cổ điển mà nếu không rõ xuất xứ thì khó có thể
lĩnh hội điều tác giả muốn biểu đạt.
Dịch Jane Eyre, tôi học được nhiều điều, sự
phong phú của cấu trúc ngôn ngữ, sự đa tầng của ý nghĩa văn học và nhân sinh. (Nếu
không thế tác phẩm đã không còn sức thu hút sau gần 2 thế kỉ.) Để kết luận tôi
xin mượn câu nói của không ai khác hơn Virginia Woolf, một nhà văn nữ lừng lẫy
khác của Anh quốc sinh sống sau Charlotte Brontë gần thế kỉ:
“Nhà
văn đã cầm lấy tay chúng ta, dắt chúng ta đi theo con đường của bà, bắt chúng
ta phải nhìn thấy những gì bà thấy, không bao giờ rời chúng ta nửa bước hay cho
phép chúng ta quên mất sự hiện diện của bà. Cuối cùng, chúng ta càng lúc càng đắm
chìm trong tài năng, sự mãnh liệt, sự phẫn nộ của Charlotte Brontë.”
TYT
Rất hay và sâu sắc mình xin cảm ơn.
ReplyDeletequán karaoke đẹp ở tphcm