Nguyễn
Đạt
*Tưởng nhớ nhà văn
Mai Thảo & Tặng thi sĩ Du Tử Lê
Người bạn tâm tình của anh, nữ sĩ K.,
một ngày kia đã hoàn thành thi phẩm Đóa Quỳ Hư Ảo. Anh tiếp nhận thi phẩm này,
với nhan đề như vậy, có gì khác không, với tâm tình giữa hai người? Anh không
thể biết chắc chắn những gì trong tâm tình đó ngoài nỗi xúc động mơ hồ, một
thoáng mỏng manh ngỡ hư ngỡ thực. Nỗi xúc động ấy hẳn nhiên không chắc chắn bao
nhiêu, không thể ngang bằng một nỗi xúc động về thơ ca anh từng có được.
Anh ngỡ mới hôm qua, dù rằng nỗi xúc
động anh đã trải cách đây mấy mươi năm. Khuôn mặt hiện ra tức thì, một tảng
băng trôi, một phiến gỗ trầm, ông MTh.
“Thế là quá tuyệt vời cho bài thơ của
cậu, bài thơ tôi thú vị vô cùng. Chiều
dàn trôi trong bóng tối lâu bền, chỉ thêm nét ngang nhỏ xíu trên đầu chữ d,
chúng ta có cả buổi chiều trôi theo tiếng đàn, cậu thấy thế không?”
Hẳn nhiên anh thấy như vậy, nhìn ông
MTh., ánh mắt thán phục. Anh đọc câu thơ mà ông MTh. đã thêm nét ngang nhỏ xíu
trên đầu chữ d: Chiều đàn trôi trong bóng
tối lâu bền.
Ông MTh. lại hỏi:
Ông MTh. lại hỏi:
“Sao lại là hoa khuất dương trong bài
thơ của cậu? Hoa khuất dương là hoa như thế nào?”
“Hoa khuất dương thường mọc trong nghĩa
địa, màu tím thẫm, chỉ nở lúc hoàng hôn khi mặt trời đã khuất bóng.”
*
Phía trước căn nhà anh trồng khóm hoa dã
quỳ, loài hoa quỳ dại mọc hoang đầy vùng cao nguyên, nữ sĩ K. gọi là Đóa Quỳ Hư
Ảo.
Một ngày anh mở cửa sổ căn nhà, bầu trời
trống rỗng. Anh mở cửa sổ lần nữa, vì anh đã đóng cửa sổ trở lại, sau khi mở
lần đầu vào lúc bảy giờ, muốn tìm xem, hoặc giả mình đã lầm lẫn, còn chút hứa
hẹn nào. Anh tự hỏi, phải chăng mình thức giấc quá trễ?
Dù sao, khuôn cửa sổ đối diện, cách một
khoảng trống, chỗ này cuối ngõ, im vắng, hai cánh cửa vẫn khép kín, có thể đã
được đóng chết với thanh gỗ dày bên trong. Anh mặc nhiên so sánh cái im vắng
lưu niên của con ngõ với cái bặt thinh của cửa sổ đối diện, thở dài, nhìn nhận
điều quá rõ, có thể sờ nắm.
Anh tự xác nhận, chẳng có gì giúp anh tin
tưởng sẽ gặp lại, mở ra điều bí mật. Nhưng tại sao? Một ngày X đã qua rồi, vậy
mà nhiều ngày, mỗi buổi sáng mở cửa sổ tim anh se thắt: khóm dã quỳ, vào ngày
ấy, chết cách nào anh không biết được, loài hoa dại mọc ở rừng, ở ven đường, ở
lề những phố, ở lũng đồi khắp vùng cao nguyên Dran - B’Lao - Di Linh - Đà Lạt - Đa Thọ, có những lúc anh đã tiểu trên
mình nó, vào lúc nào đấy bỗng nối kết với anh, như cửa sổ đối diện cửa sổ căn
nhà anh vẫn mở ra mỗi buổi sáng.
Ở bức tường phía sau của căn nhà anh ở
cũng có cửa sổ anh không hề mở, thật ra có lúc anh còn muốn bít liền tường. Anh
nghe nói ở đâu đó, ở một quán nước, cửa sổ ấy mở ra một khu vườn rộng, là nghĩa
địa của gia đình họ Trương. Anh thầm hỏi, trong khu vườn của nghĩa địa ấy có
loài hoa khuất dương?
Anh đóng cửa sổ trở lại, ơ hờ, lại còn
yên tâm là đằng khác. Công việc hằng ngày bây giờ là liều thuốc chặn cơn buồn
chán, anh đi thẳng một mạch tới nơi làm việc, một căn hộ ở lầu hai chúng cư.
Người đàn bà trên năm mươi tuổi, bà Nh.,
như người bạn giới thiệu khi anh cần một việc làm, là một trí thức sống nhiều
năm ở nước ngoài, về nước chưa đầy năm, công việc của bà thuộc lĩnh vực văn
học, tất nhiên việc anh nhận làm với bà cũng không ngoài lĩnh vực ấy.
Anh làm việc để tồn tại,
bên-ngoài-ý-niệm-về-niềm-vui, như người bạn nói, vì thế anh không quan tâm gì
khác ngoài mối liên hệ công việc, sửa những lỗi về từ ngữ, ngữ pháp trong cac
bản thảo văn học. Nhà-ngữ-nguyên-học, người bạn gọi anh như vậy, vẫn thường
nghĩ ngợi mông lung trong khi chờ cái thời-khắc-tâm-lý để nhập vào công việc.
Bà Nh. dành cho anh cái bàn làm việc ở
chỗ không có cửa sổ, bức tường trước mặt anh thường hiện lên bộ mặt tái mét,
nhà ngữ nguyên học của Melville, ông Usher, với một tấm lòng , thân hình và bộ
não tiều tụy, phủi bụi cho những quyển từ vựng, văn phạm bằng chiếc khăn tay kỳ
dị, nhắc nhở ông một cách êm dịu đến bản chất tử vong (HERMAN MELVILLE - MOBY
DICK).
Xong công việc, anh đi ngang bàn làm việc
của bà Nh., đặt lên bàn chồng bản thảo và gật đầu chào bà. Nhìn anh, mắt ngước
ở khoảng trên đôi tròng kính trễ xuống sống mũi, bà Nh. mỉm cười nhã nhặn trong
vẻ xa cách.
Một lần, buổi sáng hôm qua, lúc anh xong
công việc, bà Nh. đột ngột rời bàn làm việc, mỉm cười, anh thấy rõ vẻ thân
thiện, mời anh ngồi uống trà ở bàn tiếp khách gần đấy. “Tình cảm của tôi với
người Pháp?”, bà Nh. hơi nhíu mày, “Thật tốt, về một vài phương diện. Nhưng nói
chung, họ giống ly cà-phê bỏ quá nhiều đường.” Bà Nh. im lặng một lúc sau nhận
xét này, đột ngột hỏi anh: “Anh có đọc tác giả X, tác giả Y…?” “Tôi có quá ít
thì giờ… Tôi bận tâm tới thực vật nhiều hơn văn học…,” anh lại thấy se thắt
trong lòng, “Mà cũng bất khả… tôi không biết được vì sao khóm dã quỳ của tôi đã
chết.” Anh chợt nhớ, đã lâu lắm, anh có đọc một tác phẩm của nhà văn X, Áo Mờ
Phai, nói với bà Nh.: “Cuốn truyện quá ngọt ngào.”
“Không phải như anh thấy đâu!”, bà Nh.
nói vội, âm giọng cao hơn âm giọng của bà mà anh thường nghe. “Tôi chưa đọc
cuốn truyện đó, nhưng anh nói sai rồi. Không phải như vậy.” Câu nói của bà
khiến anh hết sức ngạc nhiên. Anh sững sờ, đứng dậy, như người mộng du sực
tỉnh, biết rằng tới lúc phải ra về.
Anh đi tới căn hộ trên lầu hai chúng cư
làm việc, công việc hằng ngày, để tồn tại bên-ngoài-ý-niệm-về-niềm-vui, gương
mặt bà Nh. hiện ra với vẻ lãnh đạm thường thấy, và chính vì vậy anh yên tâm. Đi
ngang bàn làm việc của bà, như chiếc bóng anh lướt qua đó, chiếc bóng nhập vào
chỗ ngồi, chồng bản thảo đặt sẵn trên mặt bàn, và anh, lúc đó là anh, suy tưởng
gì đấy hay không suy tưởng gì hết, đợi cái temps psychologique để nhập vào công
việc của nhà-ngữ-nguyên-học.
Bà Nh. ngước mắt nhìn anh, cái nhìn ở
phía trên đôi tròng kính trễ xuống sống mũi, bà mời anh ngồi ở bàn tiếp khách.
Bà Nh. lại muốn trao đổi gì đây, anh nghĩ, tiếp tục câu chuyện văn học? “Anh đã
khinh bạc văn học,” bà nói ngay vào câu chuyện, “trong lúc công việc của anh có
liên quan mật thiết với văn học.” Thoạt nghe, anh muốn sửa cụm từ
có-liên-quan-mật-thiết, anh cho rằng, nên nói là có-gắn-bó-hữu-cơ, và vì vậy,
nó vẫn có thể tách rời để tồn tại như những từ ngữ độc lập. “Tôi nghĩ anh nên
trở về với thế giới thực vật của anh… Có thể vì vậy, khóm… khóm dã quỳ của anh
sẽ không chết nữa.’ Anh nghe bà Nh. nói tiếp, bàng hoàng, không thể ngờ bà cay
độc như vậy.
“Không, tôi chỉ liên quan mật thiết với
những chữ, những cuốn văn phạm phủ đầy bụi mà thôi.” Anh chỉ trả lời thầm như
vậy. Hắn phải trầm luân để đồng loại ý thức về giấc mơ mà hắn lưu giữ, anh nghĩ
về điều ấy trong lúc bước xuống những bậc cấp của chúng cư.
*
Vậy là ngày hôm nay anh tới quán nước ở
bên đường ray xe lửa sớm hơn mọi ngày. Ở đây, sau nhiều ngày tháng, anh chẳng
quen biết người nào giữa đám đông như hội hè. Anh cũng không quan tâm gì, chỉ
tự hỏi: có phải mình luôn luôn đến quá trễ hoặc quá sớm lúc chuyến xe lửa chạy
ngang? Thật tâm, anh quá ưa thích nhìn những chuyến tàu lửa chạy ngang, nhìn
hút theo con tàu, tới lúc con tàu chỉ còn là dấu gạch đen sậm, dần tan biến vào
chốn không gian mờ mịt.
Anh nhận ra người đàn ông, hình như anh
đã gặp ông ta nhiều lần ở nơi nào khác. Ông ta không có gì đặc biệt hơn vẻ quen
thuộc và một nơi chốn mù mờ trong trí nhớ anh. Ông ta đang nói chuyện gì đấy,
anh nghe: “Nàng bỏ đi hẳn rồi.” Tiếng cười của một người nào khác. Tiếng nói:
“Có thể cô ấy bị tai nạn giao thông ở đâu đó.” Ông ta phản bác: “Không phải như
vậy. Nàng đã mang theo tất cả… áo quần giầy dép tư trang… những cuốn tiểu
thuyết… Tất cả! Tất cả!” Đột nhiên nhiều đầu người xúm lại xem cái áo mà ông ta
đang giơ lên cao, nói rõ giọng: “Các anh nhìn coi, tôi đã chờ, tôi đã chờ bao
đêm, miệng ngậm cái nút áo chỗ ngực nàng tới mòn vẹt.”
Anh đã uống cạn bình trà ở quán nước,
và không còn việc gì khác trong lúc buổi trưa còn xa, anh về nhà, không mở cửa
sổ, ngôi ngây một lúc như đang chịu tác dụng của liều thuốc mạnh. Giống người
say thuốc, anh buồn ngủ, mí mắt trĩu nặng đổ sụp.
“Suốt những ngày này em tìm anh khắp
nơi, ở căn nhà trên lầu hai chúng cư, ở quán nước cạnh đường ray xe lửa, ở quán
cháo trắng hột vịt muối hẻm X… hoặc em đến quá trễ, hoặc em đến quá sớm.”
“Vậy là… chị biết tôi?”
“Sao em không biết anh cho được… Cửa sổ
nhà anh mở sang cửa sổ nhà em… Em đã tìm, đã theo anh tới những nơi chốn của
anh, mà có nhiều gì, chỉ có vài chỗ ấy.”
“Ôi, như vậy sao? Nhưng từ nhiều ngày
rồi, cửa sổ nhà em đóng kín.”
“Em vẫn trở về, nhưng cần gì mở cửa sổ
ấy nữa, em đã thuộc về anh!”
“Thế em… em không chải tóc hong gió nữa?
Em làm gì trong cánh cửa sổ đóng kín?”
“Em thây kệ những những chuyện đó. Nhưng
nếu anh thích, lát nữa đây em sẽ mở cửa sổ… À, em làm gì trong đó hả? Em đọc
mãi không chán cuốn Y.”
Khi nghe nói vậy, nghe nhắc tên tác phẩm
Y. của nhà văn X, anh không ngăn được cơn buồn nôn, nó thốc tháo ngay dưới chân
chiếc giường sắt nhà binh hoen gỉ. Một mình anh trên chiếc giường ấy, trong gác
xép của căn nhà.
Anh mở cửa sổ lúc trời chiều màu xám
tro, thấy chen trong khóm dã quỳ những mầm chồi lá xanh non. Một thoáng nghĩ
ngợi, anh không biết những mầm chồi ấy có thật hay trong mơ, khóm hoa ấy, hoa
dã quỳ hay hoa ảo tượng.
Cửa sổ đối diện vẫn đóng kín.
Dran - Sài Gòn, 1995 –
2016
NĐ
(Nguồn: Trang nhà Du
Tử Lê)
No comments:
Post a Comment