Ý
Nhi
Tô Thùy Yên. Đinh Cường vẽ
1.Năm 1993.
Tôi đã được nghe Trường Sa hành, Chiều trên phá Tam Giang,
Thi sĩ…trước khi gặp Tô Thùy Yên. Vì vậy, có phần bất ngờ khi đối diện với tôi,
con người từng mộng du trên trái đất tròn,
từng chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng/giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô,
con người từng hỏi han hiu quạnh lớn, từng bay trên phá Tam Giang
với những suy nghĩ ở một tầng cao đáng kinh ngạc về cuộc chiến tàn khốc đang
diễn ra, lại là một người đàn ông tầm thước, lịch duyệt, từ tốn. Bất ngờ khác, ông
gần như không có sự ngại ngần khi trò chuyện với tôi- một nhà thơ từ Hà Nội vào.
Có lần, ngồi ở quán nước vỉa hè cùng nhà văn Nguyễn Đình Toàn, sau khi nghe tôi
kể một giai thoại chính trị, ông cười: tôi hiểu vì sao tôi chơi được với cô
rồi. Nhưng có lẽ, không chỉ do những giai thoại.
Ông thường ghé qua nơi tôi làm việc-
Chi nhánh Nhà xuất bản Hội nhà văn tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông có thể
gặp những nhà văn miền Nam còn ở Sài Gòn như Huỳnh Phan Anh, Bùi Giáng, Nguyễn
Đình Toàn, Thế Phong…và những nhà thơ trẻ như Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Hoằng Vỵ,Thảo
Phương, Phạm Thị Ngọc Liên…Hồi đó, hẻm 361 Hai Bà Trưng ( nơi có trụ sở Nhà
xuất nản) còn vắng vẻ. Phía trước mặt trụ sở có một khoảnh đất trống. Gia đình nọ đã dựng tạm gian quán lợp giấy
dầu bán cà-phê nước ngọt, kiểu một cái quán cóc.
Chúng tôi thường “tụ tập” ở đó. Nhiều khi chúng tôi là những người khách duy
nhất. Sáng nọ, trong gian quán quạnh quẽ, Tô Thùy Yên đã đọc cho chúng tôi nghe
bài thơ Quán vắng vẻ của ông: Quán vắng vẻ/ không ai người đến gặp/ ngọn đèn như nỗi đợi thiên thu…Giọng
ông nhẹ nhàng, cách đọc chậm rãi khiến người nghe dễ dàng nhập vào tâm trạng
của tác giả: Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối
mấy chẳng hơn gì/ Thôi thì hãy cố
nán/ Cho đáng một lần đi… Nghe đâu, trong tù, ông còn hát vang lên một ca
khúc của Trịnh Công Sơn, để báo với bạn tù sự có mặt của mình, để thiên hạ biết
mình vẫn có thể hát. Hỏi, ông cười, tôi hát cũng được lắm đó cô.
Đôi lần, sáng ra ông đã ghé lại. Ông
bảo, dắt xe ra khỏi nhà, chẳng biết đi đâu, lại tạt vô đây. Đôi lần, ông xuống
nhà tôi ở quận 6, không gặp tôi, ông trò chuyện với nhà tôi và các con tôi. Khi
nghe vợ chồng tôi có ý định xây nhà trên mảnh đất ở Gò Vấp, ông đã đưa chúng
tôi đến Biên Hòa gặp kiến trúc sư Đinh Thiên Tứ- bạn ông- nhờ thiết kế. Từ khi
ra tù, Đinh Thiên Tứ bỏ nghề, không nhận bất cứ công việc chuyên môn nào. Nếu
không có Tô Thùy Yên, chắc chắn chúng tôi không thể có được ngôi nhà trang nhã,
thanh thoát, chan hòa nắng gió này.
Ông
nói với tôi, ông mong có dịp ra Hà Nội, nơi ông từng qua giữa đêm khuya trong
chiếc xe chở tù bít bùng, chật chội. Ông một mình chạy xe đến hồ Trị An “đi giữa trảng tranh/ràn rạt gió lùa/hư rỗng
tuênh toang/ bốn phía rừng xa mịt mịt”…
Những quấn quýt bạn bè, những lo
toan giúp đỡ, những tỏ bày, những chuyến đi…phần nào nói lên tâm trạng của Tô
Thùy Yên lúc này. Ông vừa ra khỏi tù lần thứ 3 chưa bao lâu và đang chuẩn bị
cho việc rời bỏ quê cha đất tổ. Có thể nói, đó là quãng thời gian rất đặc biệt
trong cuộc sống của ông: chưa dứt khỏi ký ức nặng nề, bàng hoàng giữa những
ngày đang sống( Lang thang rã rời ngoài phố đông người/ không gặp một ai
quen…Bất chợt nghe như đời đã muộn/ Muộn đến chán chường rũ thõng đôi tay/Tưởng không cái vội nào còn bắt kịp…) và, đứng trước một chuyến
ra đi không dễ dàng, thậm chí, là một chuyến đi đau đớn, đầy ưu uất: Anh ra
đi/Bứt ruột mà đi/ Như đã một lần cũng bứt ruột/Đi những mười năm tưởng chẳng còn vế…Anh lên đường/ Giả tảng không nhìn nỗi sỉ nhục…Anh ngậm nghẹn lời từ
biệt/ Liên tưởng việc xe chôn kẻ tội
đồ…Anh ra đi/ Cầu sao cho thoát được/ Con mắt miên man/ Trừng nộ từ tối tăm tàn lụi/ Quét rạt chỉ
điểm người xổng chạy vô phương…Anh ra
đi, cầu sao cho thoát được/ Bộ da đó của mình/ Đánh lạc hướng truy tầm của định mệnh…Phần anh ra đi/
Gắng gượng chút hơi tàn/ Hân hoan ròn
rã/ Như người ngửa mặt trong trời mưa/ Mong trôi khỏa nhẹ nhàng những nếp rạn…
Cuối
năm, trước khi cùng gia đình rời Việt Nam, ông đem cho tôi một số bài thơ chép
tay, như món quà dành cho người bạn vong niên: Ngoài cõi võ vàng, Giấc hoành môn, Những mẩu giấy rời, Những thành phố mà ta không ghé lại, Bài thơ
chia tay dành cho người duy nhất đọc, một bài không có tựa đề và bản in bài Ta về (Có lẽ trên 1 tạp chí ở Hải
ngoại) với các ghi chú: Nhớ đừng phổ biến
hay: Bà đọc qua cho biết thôi. Xin đừng phổ biến. Đa tạ. Trong số này, không hiểu sao có
tới 4 bài được viết bằng bút chì, trên những tờ giấy mỏng, ngả vàng. Chữ Tô
Thùy Yên rất đẹp. Các bài thơ đều được viết trong năm 1993. Sau này, trong Thơ tuyển, Bài Thơ chia tay…được lấy tựa Giã
biệt và không thấy có Những mẩu giấy
rời, Ngoài cõi võ vàng, bài thơ không
tựa đề. Có thể Tô Thùy Yên không chọn. Mà cũng có thể ông không còn lưu giữ
chúng. Tô Thùy Yên dường như không có thói quen lưu giữ các bài thơ của mình,
dưới bất cứ hình thức nào. Làm thơ từ cuối những năm năm mươi mà đến năm 1995
ông mới cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Được biết, khi làm sách, ông đã phải nhờ
cậy bạn bè và những người yêu thơ còn lưu giữ thơ ông. Một trường hợp hy hữu.
Năm
1993, tôi đã gặp Tô Thùy Yên.
2. Thơ của gã du hành
muôn năm muôn nơi2
Nhưng một cuộc gặp khác, cuộc gặp Thơ Tô
Thùy Yên thì phải chờ đến mấy năm sau. Có
thể nói, đây là một cuộc gặp gây chấn động với tôi. Mười mấy năm trôi qua, kể
từ khi có Thơ tuyển 3 và Thắp tạ 3, tôi luôn có ý định viết về thơ
Tô Thùy Yên nhưng lại luôn ngần ngại, lo mình không đủ sự thấu hiểu, không đủ
sự đồng cảm 4. Chỉ khi nhận được thư điện tử của ông vào cuối năm
2015 5, tôi mới khởi sự. (Chợt nhớ câu thơ:” Chúng ta khởi sự lại mối sầu”/Hải
phận).
Như mọi nhà thơ lớn, khi bắt đầu, Tô Thùy Yên đã
định vị chỗ đứng của mình. Thi sĩ 18 tuổi lựa chọn sự đối đầu. Với Thượng đế;” Đầu tôi cứng và trơn/ Thượngđế làm sao ngự”,
với Hư vô:” Có đọc thuộc thánh thư/Linh hồn tôi vẫn vậy/Tôi vẫn
không thể lạy/Dù đứng trước hư vô”, với
cuộc đời:”Với thứ linh hồn quốc cấm/ Tôi tù tội chung thân”,
với Thơ:”Tôi giựt dành đổ máu với tôi/ từng chữ một” . Và, thi sĩ chấp
nhận nỗi cô đơn: ” Tôi thấy đã mất mát/
Tất cả trừ cô đơn”, chấp nhận “cuộc tuần du bất tận…về nơi hẹn nào không
định trước”, chấp nhận những đau đớn, những oan khiên, những trượt lỡ của
cuộc đời. Đó là một lựa chọn có ý thức. Và vì vậy, đã được nhà thơ giữ trọn
suốt một đời thơ dài hơn sáu mươi năm.
Có thể nói, Thơ Tô Thùy Yên là câu chuyện của
“gã du hành muôn năm muôn nơi”5
. Cách khác, chính xác hơn, đó là cuộc độc thoại của con người đầy ý thức
về cõi thế, về cõi người, về lẽ mất, còn, về dựng xây và hủy diệt, về hy vọng
và tuyệt vọng…Cách khác nữa, là lời tự vấn, là những câu hỏi, nhiều khi không
lời đáp, sau những gì đã đi qua, đã trải qua, sau những hạnh ngộ và chia lìa,
sau những hân hoan hiếm hoi và những khổ lụy lâu dài của kiếp người. Dù là cách
nào đi nữa, cuối cùng, thơ Tô Thùy Yên cũng đem lại cho ta những suy nghĩ lớn lao, những rung cảm mãnh
liệt, những dày vò khôn nguôi, và, vẫn còn đó, những câu hỏi mà ta cũng không
tìm ra lời đáp hay chỉ là “Câu hỏi vạn
niên/ Lời đáp nhất thời”.
Đó
là câu chuyện của bậc thượng thừa, bậc tiên tri. Chẳng phải thế sao. Ngoài hành
giả này, đã có ai từng ao ước :” Giá ta
được lên cao, lên cao/ Để ngắm nhìn một lần
thấu suốt định mệnh ta/ Trước ngày từ biệt nó”. Ngoài hành giả này, đã có
ai từng hỏi han “Hiu quạnh lớn”, ai từng
nhìn thấy:” Trên dốc thời gian hòn đá
tuột/ lăn dài kinh động cả hư vô“,
“ mặt
tinh cầu xếp nếp/ Như lằn nhăn tuổi tác hư không”, ai từng nghe thấy “Những
âm thanh chuyển động buồn rầu/ Của
nhân thế trên nẻo mòn vĩnh cửu”. Ai, ngoài ông, có thể có được tiên cảm
kinh hoàng về những tai ương, những tang tóc mà nhân loại hôm nay đang hứng
chịu:
Một
ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Ngoài biển khơi, trên lục địa
Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên
thân
Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Quật ngã những bức tượng, xô sập
những đền đài
Tiếng hú chạy dài suốt lịch sử
Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Xé rách một kỷ nguyên, phân tán các
dân tộc
Để mọi người câm lặng ăn năn…
Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Sườn núi rát đỏ, đồng ruộng khô ran
Rồi mặt đất cũng vô danh như mặt
biển…
Trong thơ Tô Thùy Yên, Ta Egan với Thượng
đế, với Thiên thu, với Trời đất, Nhân loại, với Biển lớn, với Non cao, với Hạnh
phúc, với Khổ lụy…Đầu tiên ta kể về im
lặng/ Dưới vòm trời, dưới mái tóc ta… Ta
hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn…Làm sao ta biết được/Niềm vô lượng không gian cuốn
hút/ Cõi trăm năm tiếp tiếp miệt mài…Chiều, chiều của đời ta, chiều của thiên
nhiên…Ta nghe thấy cả những âm thanh lịch sử thịnh nộ/ rây lọc mơ hồ qua màn
lưới yên bình…Ta cảm ơn người đời. Cảm ơn trời đất…Nhiều khi ta ngước lên ngơ
ngẩn/Nghe tiếng chim quen bay lướt qua…Ta khóc lẻ loi, cười một mình…Ta nghe
cánh cửa lâu đời sập/ Những xích xiềng han rỉ đứt tung...Ta suy ngẫm đau thương
về hạnh phúc/ Hạnh phúc thực hư như hoa đốm nắng hè/Như cơn gió không thể nào
lưu trữ/ Như lượn sóng xô lên rồi tan hoang…Ta suy gẫm đau thương về tình yêu/ Tình
yêu giả trang mối sầu phiêu bạt của nhân thế trăm năm trong bát ngát thời
gian…Ta bất chấp hạnh phúc và ta hạnh phúc/Hạnh phúc không chờ trông, không
tiếc thương…Tự do, ta thết mừng điên đảo/ Cuộc tiệc trăm năm nhục thánh thần…Ta
mò đoán nghĩa dòng hư tự/ Mòn nét trong thiên địa ngập ngừng… Ta bằng lòng phận
que diêm tắt/ Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông…Ta ra đi/ Đường mở tự lòng ta…Ta
về-một bóng trên đường lớn…Ta khóc tạ ơn đời máu chảy /Ruột mềm như đá dưới
chân ta…Ta về khai giải bùa thiêng yểm…Đi như đi lạc trong trời đất/ Thủy tận
sơn cùng xí xóa ta…Để khi mở mắt ta nhìn thấy/ Cả cuộc đời ta chẳng đáng chi…Có
ai trong cõi vô cùng tận/ Bắt gặp lòng ta bay đảo điên…
Chỉ có sự ngang
bằng ấy, nhà thơ mới có thể làm “cuộc
phiêu lưu tinh thần bi liệt” của
mình.
Có lúc, “Ra đi như một bình minh lạ/ Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình…Ra đi như một âm thanh sáng/ Xuyên suốt
tâm linh, dội cảm sầu”, có khi khao khát mãnh liệt :” Chúng ta sẽ gia giáo hóa thiên nhiên/ Chúng ta sẽ đồng loạt hóa định mệnh/ Chúng ta sẽ nhật tu đời sống miên
man trong từng phạm vi chi tiết
nhất…Cầu cho ta khôi phục con người ta, vết lóe của thiên nhiên” nhưng
thường khi là nỗi buồn, thường khi là nỗi lo âu, thậm chí, tuyệt vọng. Liệu có
hành giả nào tự cổ chí kim không buồn khổ, lo âu, tuyệt vọng.
Vinh quang cho ai đang ở trên đường
nhưng Một bước đã muôn trùng... Vinh quang cho người chọn được mệnh mình
nhưng Làm sao ta biết được/ niềm vô lượng không gian cuốn hút/ Cõi
trăm năm tiếp tiếp miệt mài, làm sao
ta biết được/ Dâu biển ngoài kia
chung cuộc chưa…Trời đất kia còn bao thiên thu?
Đi. Đi qua. Đi qua
nữa. Đi qua nữa nữa nhưng
chỉ nhìn thấy Trùng trùng những lớp cửa liên hồi mở, đóng, mở…Từng ngày,
từng ảo tưởng phai buông…
Ta đi tới, mong còn
đi tới nữa/ nhìn thế giới diệu kỳ nhưng chỉ trong khoảng sáng buồn rầu/
Chừng của một que diêm…
Nhưng
Vũ trụ tạo hủy dở dang mãi
Nhưng
Con đường đi mỏi mà không tận
Nhưng
Thiên thu lóe tắt vệt phù du
Nhưng
Việc đời thường khi bất xứng ý
Nhưng
Đến ngả ba đành theo một lối/ Tiếc ngẩn
không cùng theo lối kia
Nhưng
Hoài công không định nổi chân hư
Nhưng
Cánh cửa lớn lao nào/ Mở ra và đóng lại/
Kín như bưng/ Tưởng chừng không có
cửa
Nhưng
Mặt trời chiếu rã rưng rưng biển/ Vầng
khói chim đen thảng thốt
quần; Mòn gót chân
sương nắng tháng năm/ Thấy, thấy sóng tan tành lũ lượt; Cụm mây trôi rã trong trời lớn/ Như giấc chiêm bao thấy nửa chừng; Tàu chuối xác xơ reo ngất ngất/ Nỗi đời bi
thiết xé lưa tưa; Trời đất thì buồn như
trái rỗng/ Ta thì như gió tuyệt bơ vơ; Có
đi ngàn dặm cũng là quẩn/ Càng nhìn
trời đất càng hoang mang…
Đây không phải là câu chuyện của một người, của
một khoảnh khắc, của một miền đất mà là câu chuyện của muôn năm muôn nơi, câu
chuyện của hành giả mang tên Tô Thùy
Yên, kể cho Hư không. (Ta chỉ là người trộm nghe. Bởi vậy, đâu dám chắc đã thấu
hiểu thâm ý.)
Đặng
Tiến tinh tế khi cho rằng thơ Tô Thùy Yên là “ những bài thơ ngoài thời gian
và vô quốc tịch”( Ngựa phi, ngựa phi đường xa)
3. Câu thơ soi mệnh
viết mà khóc
Vào năm 1972, trong bài thơ Bất tận nỗi đời hung hãn đó, Nhà thơ từng cầu ước được một lần thấu suốt Định mệnh của mình, được một lần nhìn thấy toàn cảnh những con đường mình sẽ đi. Nhưng, vẻ như, ông đã không được toại ước, không thể biết rằng, chỉ vài ba năm sau đó, đã phải đặt chân lên đoạn đường tàn khốc của đời mình: "Đất ta, ta giẫm mà ghê chân”Đó là thời của những Mùa hạn: mùa hạn của trời đất, mùa hạn của thể xác, của tâm tưởng:
Ở đây địa ngục chín
tầng sâu
Cả giống nòi câm lặng
gục đầu
Cắn chết hàm răng, ứa
máu mắt
Chung xiềng nhưng
chẳng dám nhìn nhau
…Nước khe, cơm độn,
thân tàn rạc
Sống chẳng khôn, cầu
được thác thiêng
…Sông hồ nẻ đáy,
giếng vô vọng
Muôn thú điên lầm lũi
bỏ đàn
…Như tên phù thủy già
điên loạn
Lịch sử lên cơn giận
bất thường
…Gõ lấy đầu mình như
gõ cửa
Liên hồi kêu cứu giữa
đêm khuya
Đầu ta như chiếc đầu
lâu cổ
Tiếng rỗng không khô
khốc não nề…
Đó
là thời của những chuyến Tàu đêm lao
vào cõi mịt mù tựa như một mũi khoan xoáy vào tâm trí đớn đau của người tù:
Toa
đêm lúc nhúc hồn oan khốc
Đèn bão mờ soi chẳng rõ ai
Ta gọi rụng rời ta thất lạc
Ta còn chẳng đủ nửa ta đây
…Ngồi đây giữa những phân cùng bụi
Trong chuyển dời xung xát bạo tàn
Ta trở thành than, thành súc vật
Tiếng người e cũng đã quên ngang
…Đem thân làm gã tù lưu xứ
Xí xóa đời ta với đất trời
Ngàn dặm lìa tan tình cố cựu
Bàng hoàng thân thế cụm mây trôi
…Dường như ta chợt khóc đau đớn
Lệ nóng cường toan cháy ruột gan
Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt
Nghẹn ngào đến cả tiếng than van
…Tàu đi như một cơn điên đảo
Sắt thép kinh hoàng va đập nhau
Ta tưởng chừng nghe thời đại động
Xô đi ầm ĩ một cơn đau…
Đó
là thời của Tiếng kêu cứng nghẽn cổ u tình,
của Tháng tháng năm năm/ Lòng như núi nặng/ Ta đứng lên/ đi tới đi
lui/ Trăm lượt nghìn lần/ Như một hồn
ma cổ đại/ Trong hầm mộ muôn đời…Ta cố nhớ giấc mơ/ Nhưng rồi không nhớ được/ Ta nằm xuống/ Dỗ mình hãy cố
ngủ/ Tập quen dần với giấc thiên thu…thời
của Tập lịch lâu ngày không gỡ tới/ Thờ ơ
giữ đủ cả âu sầu…của những đêm tối lền xòe tay cũng chẳng thấy…Thời của
tang thương, cay đắng, u uất. Thời của “ những
ngày câm nín”, theo cách nói của Chân Phương.6
Có thể vị Hành giả đã không thể hiểu
hết những dòng lược sử của mình (Thoáng
nhớ có lần ta đọc trộm/ Lược sử ta trong bí lục nào/ Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn/ Thiên thu lóe
tắt vệt phù du) để biết được rằng: Định mệnh buộc người phải trải qua những
khổ nạn này, như một thử thách. Một lò luyện.
Nhưng,
ông đã đi qua, tự giác đi qua. Với con người ấy, những oan khiên, những mất
mát, những khổ lụy của cá nhân không làm lụi tắt tình yêu thương bất tận với
đồng loại, không làm lụi tắt nỗi lo âu nhân thế. Chính trong cái Mùa hạn kinh hoàng ấy, trong cảnh tù đày
khốn khổ ấy, những câu thơ vẫn bật lên ánh sáng nhân ái kỳ diệu nhất mà con
người có thể có được:
Xứ khổ, thêm chi mùa
thảm khốc
Than ôi, trời đã bỏ
rơi dân
Người mẹ trẻ buồn đôi
mắt trũng
Thân gầy nhom, tóc
cháy, da cằn
Địu con, một nhúm
thịt nhăn nhúm
Ra ruộng khê tìm mót
cái ăn
…Làng mạc giờ đây đã
trống trơn
Con dê, con chó cũng
không còn
Người đi bỏ xác nơi
bờ bụi
Miếu sạt, thần hoàng
rũ héo hon
…Ta thương vô kể mầm
cây lụi
Con suối trinh nguyên
chết cạn lòng
…Ta gom từng hạt cây luân lạc
Mong mỏi gầy lên một địa đàng
…Tất cả rồi đây sẽ
đổi thay
Đổi thay từ quặng mỏ,
mầm cây
Đổi thay cả mặt người
tăm tối
Những bớt chàm xưa
được xóa trôi
…Đi nào, chú bé của
ta ơi
Đem tấm lòng trang
trải với đời
Yêu cả con sâu cùng
cái kiến
Thả hồn vào cỏ lá
bung phơi
…Những ai hôm trước
từng gây tội
Hãy lắng tâm tha lấy
lỗi mình
Tự tại, thời gian chôn
chính nó
Đời lên lại mãi tự
bình minh…
Chính trên chuyến tàu đêm mịt mùng, vô
vọng ấy, những câu thơ lại như những lời kêu gọi vang vọng, những khắc ghi sâu
đậm trên ngày tháng:
Thức
dậy, những ai còn sống đó
Nhìn ra nhớ lấy phút giây này
Tàu đi như một cơn
giông lửa
Cuồn cuộn sao từ ống
khói bay
…Nghe cả hồn ta bị
cán nghiến
Trên đường lịch sử
sắt tuôn mau
…Lịch sử dường như
rất vội vã
Tàu không đỗ lại các
ga qua
…Thời đại đang đi
từng mảng lớn
Rào rào những cụm
khói miên man
… Có nghe lịch sử mài
thê thiết
Cho sáng lên đời đã
rỉ han
…Tàu ơi, hãy kéo còi
liên tục
Cho tiếng rền vang
dội địa cầu
Lay động những tầng
mê sảng tối
Loài người hãy thức,
thức cùng nhau.
Thật
khó hình dung đó là tiếng nói của một người tù nhưng thật dễ hiểu, khi biết,
người tù đó là nhà thơ Tô Thùy Yên- người từng chọn cho mình một cách giã từ
đẹp đẽ nhất, sang cả nhất:
Rồi
đến một hôm nào
Ta mắc lại
Trên cành cây bất
chợt gặp bên đường
Tấm áo sinh thời nặng
trĩu bụi
Như một lời từ biệt
nghe rồi quên.
Đó
là những vần thơ Lấy mình soi mệnh mình.
4. Lòng ta vô sự, ta
vui vẻ.
Câu thơ này nằm trong bài thơ Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, một bài thơ
hiếm hoi dường như chứa chất nỗi vui, sự thanh thản của tâm hồn. Dù vậy, ngay lần
đầu đọc câu thơ, tôi đã ngờ ngợ có điều chi đó bất ổn. Có thể vì tôi đã đọc quá
nhiều những câu thơ đau đớn, dằn vặt, thảng thốt về nỗi đời của Tô Thùy Yên.
Chúng phủ trùm lên tâm trí người đọc, không nhường chỗ cho bất cứ điều gì khác.
Mà cũng có thể, chính âm hưởng của câu thơ đã phủ định ý nghĩa của từ ngữ. Nếu
quả ta vui vẻ, ta vô sự, hẳn ta chẳng cần “tuyên bố” như vậy. Trong lời tuyên
bố này hàm chứa một điều gì giống như sự gắng gượng. Gắng tỏ ra vô sự, gắng tỏ
ra vui vẻ. Gắng buông mình. Gắng quên những lo âu, phiền lụy :
Ta
rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi…
Trận lốc cười tròn trên quá vãng
Ta làm lại cả tâm hồn ta…
Thôi vướng mắc dài duyên với nợ
Ân oán đời, phong kiếm rửa tay…
…Nên ta phó mặc cho trời đất
Trời đất vô ngôn lại bất nhân…
Ví dù ta ngủ không còn dậy
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng…
Vẻ
như, cuộc gắng gượng không thành. Xem ra, lòng chẳng hề vô sự. Xem ra, cuộc
“làm lại tâm hồn” cũng chỉ là một dự tính bất thành.
Hạnh phúc, tình yêu, niềm vui…trong thơ Tô
Thùy Yên thường ở trạng thái của một mơ ước, thường ở thế khả năng, thế của một
dự tưởng, một hồi tưởng. Bản trạch
yêu thương kia chỉ về trong tưởng tượng. Vườn
hạ trong xanh dịu dàng kia chỉ là việc của “mai kia mốt nọ”, những cảnh thanh
bình yên ả chỉ là nỗi nhớ tiếc:
Còn
ở đâu miền xanh bóng cây
Để ta đến đó ngồi trưa nay
Dường như hơi mát trong vòm lá
Có chất men làm ta thoảng say…
Còn ở đâu làn nước giếng khơi
Để ta đến uống một hơi dài…
Ở đâu còn trận gió thênh thang
Thổi mới trần gian mùa rộn ràng…
Bao giờ, cho đến bao giờ nữa
Em gánh vui về họp chợ đông…
Và,
tình yêu. Và niềm vui chỉ là một khát vọng khôn cùng, một mong mỏi khiêm
nhường:
Anh
yêu em, yêu nuối tuổi đôi mươi
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một nhành mai nhị độ…
Anh muốn viết một bài thơ mới cho em
Trên trang giấy đã ố vàng quên lãng
Anh muốn ngắt một cành hoa lạ cho em
Trên cuộc đất đã phơi trần hạn hán…
Cũng có lần anh muốn nhìn em
Thành cây nước phun nở
Hân hoan và rã tan
Cùng kiệt tình yêu
chất giấu một đời
Một đời hiển hiện và lãng quên
Như quyển sách mở trên bàn mặc tình
cho gió lật…
Những thành phố mà ta không ghé lại
Biết đâu chẳng có một con người
Mà ta yêu suốt đời ta thắm thiết
mãi…
Vui đi em
Vui được chút nào vui…
Thôi, chẳng tiếc túi vàng đã phung
phá
Mà mừng mẩu nến chợt tìm ra…
Hãy hạnh phúc nhất thời
Như dấu lặng
Hãy hạnh phúc nhất thời
Như tiếng mưa rào, như lời cỏ hát
Như ánh chớp đùa, như hạt sương gieo
Như giọt nước lan reo mà tự hủy…
Liệu
con người này có lúc nào vô sự, có lúc nào vui vẻ, thảnh thơi như câu thơ ông từng viết?
5. Ta
về, khai giải bùa thiêng yểm
Ví như, từ một lần đi đến ngôi quán
vắng vẻ kia: Lỗi tự mình, lỗi tự mình thôi/ Đã chẳng nhớ ra ngày tháng hẹn…Tội
cho người, tội bấy cho người/ Cũng đến
đây chờ chẳng gặp ai…Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì.
Ví như, từ một lần đến Trường Sa: Ta hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn/ Mà Hiu quạnh lớn vẫn làm ngơ…Mùa gió xoay
chiều, gió khốc liệt/ Bãi Đông lở
mất, bãi Tây bồi/ Đám cây bật gốc chờ tan xác/ Có hối ra đời chẳng chọn nơi…
Ví như, từ bao nhiêu chiêm nghiệm về
lẽ đời: Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm/ Cuối chặng hành trình quay đảo
nhất/ Cả thảy sẽ an nhiên/ Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ…
Và, cuộc “ khai giải” sâu đậm nhất
đã diễn ra trong một lần gặp mặt tưởng tượng với người lính bên kia chiến
tuyến:
Ví dù ngươi bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bặt im
Chuyện cũng thành vô ích
Ví dầu ngươi gục
Vì bom đạn bất dung
Thi thể chẳng ai thâu
Nào có chi đáng kể
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho
cùng
Ví dầu các việc ngươi
làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại
Mặt đất này đổi khác
được bao nhiêu?
Ngươi há chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, phá
Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?...
Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ
khạo
Nên cả hai cùng cam
phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc
đường Lịch sử…
( Chiều trên phá Tam
Giang)
Chắc
chắn, nếu không có cuộc “khai giải” trong tâm tưởng ấy, không có cuộc khai giải
tự lòng mình ấy, không thể có hình ảnh người tù: Ta về một bóng trên đường
lớn; không thể có cảnh tượng: Tưởng
tượng nhà nhà đang mở cửa/ Làng ta, ngựa đá đã qua sông/ Người đi như
cá theo con nước/ Trống ngũ liên nôn
nả gióng mừng; không thể có nỗi hàm ơn: Ta
về cúi mái đầu sương điểm/ Nghe nặng từ tâm
lượng đất trời/ Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui từ mỗi lẻ loi; không
thể có sự bình tâm: Em hãy yêu lấy thành
phố của anh/ Như tất cả những gì anh
gửi lại/ Trong buổi chiều dịu lãng đời em/ Thành phố của anh/ Bây giờ đã thuộc về em/ Như lời nói thuộc về nhà thơ
phe thắng trận; không thể có cuộc lễ tạ đơn độc mà kỳ vĩ: Ta về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần
ấm tối nay/ Chút rượu hồng đây, xin
rưới xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này…
Cuộc khai giải huy hoàng và đau đớn này, chỉ
có thể được làm nên bởi chính tri cảm của một người lớn, một nhà thơ lớn.
Mà,
Bài
thơ ông muốn viết vẫn chưa xong.7
***
Các nhà Phê bình văn học danh tiếng như Đặng
Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc…đều đã thử bút với thơ Tô Thùy
Yên. Và, dường như chưa ai trong số họ
cho rằng họ đã nói lời sau cùng về ông. Chắc chắn, những nhà phê bình tiếp sau
họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô Thùy Yên với một định chuẩn thẩm mỹ
mới, bởi vì Thơ Tô Thùy Yên là kho báu của thơ Việt, bởi vì Tô Thùy Yên là “một
trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm
văn chương miền Nam” ( Du Tử Lê ). Chính xác hơn, Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn (nếu
không muốn nói là lớn nhất) của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Sài Gòn 3/2016
Ý
Nhi.
1.Thơ
Tô Thùy Yên: Thức cho xong bài thơ/Mai
sớm ra đi/ cài hờ lên cửa tặng.(Tặng
phẩm)
2.Thơ
Tô Thùy Yên: Có một gã du hành muôn năm
muôn nơi trở về kể chuyện/ ý chừng kể
để Hư không nghe( Chim bay biển Bắc).
3.Tên
2 tập thơ của Tô Thùy Yên.
4.Đặng
Tiến:Tác giả kén chọn người đọc và cách
đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi
có thơ thường xuyên đăng trên báo, anh mới cho xuất bản một tập thơ tuyển, viết về anh có phần khó,
không phải ở khâu bình giải khen chê,
mà ở mức độ đồng cảm ( Ngựa phi, ngựa phi đường xa)
5.
Trích thư Tô Thùy Yên trả lời về việc xin đăng thơ ông trên Văn Việt:…Riêng tôi sức khỏe ngày càng lôi thôi, khó
lòng đến thăm cô ở ngôi nhà Gò Vấp của cô…hay đi ăn bánh xèo Đinh Công Tráng…Về
những bài thơ, xin cô cứ tùy nghi.
Tôi thiết nghĩ, dù xa mặt, bao giờ cô cũng chẳng nỡ làm gì có thể hại thanh danh và khí tiết của tôi…
6.
Tên một tập thơ của Chân Phương: Chú thích
cho những ngày câm nín.
7.Trời rạng/Chuyến đi không hoãn được/ Bài
thơ tâm phát dẫu chưa xong/ Xin vẫn cài hờ lên cửa tạ.( Thơ tạ).
8. Tất cả các câu thơ in nghiêng trong
bài viết là thơ Tô Thùy Yên.