Việt Phương
The
haiku of Basho
Haiku
là thể thơ ngắn nhất thế giới được thiền sư Matsuo Basho khai sinh ra ở thế kỷ
17. Thơ gồm 3 dòng 17 âm tiết nhưng rất cô đọng, chuyên chở thiền, hình ảnh,
tiếng động và ý nghĩa sâu xa của nó. Cấu trúc thơ Haiku gồm. Dòng một, 5 âm,
dòng hai 7 âm và dòng ba, 5 âm (đôi khi được biến hóa chút đỉnh). (1)
Theo
nhận xét của nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861 -1941, Nobel văn chương
năm 1913) về Matsuo Basho: "Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi tránh sang
một bên" (2). Có nghĩa là thơ Haiku, chỉ là cánh cửa đưa chúng ta vào khu
vườn đơn sơ chữ nghĩa, nhưng đằng sau khu vườn đó là một chân trời mở lớn theo
sự suy tưởng của người đọc đến bao la vô cùng. Đó là cái hay của thơ Haiku. Đọc
thơ Haiku, chúng ta không dừng ở 17 âm tiết đó với chỉ vỏn vẹn ba dòng thơ,
không vần, không điệu. Nhà thơ chỉ đưa chúng ta đến cánh cổng của chữ nghĩa,
sau đó chúng ta tự đi một mình để khám phá cái mênh mông trong trí tưởng. Và
như thế chúng ta lại tiếp tục sáng tạo.
Có
thể nói, thơ Haiku như là một thứ nghệ thuật cắm hoa Ikebana của Nhật Bản xuất
hiện và phát triển từ thế kỷ 14. Nó như là một bình hoa tuyệt mỹ, không thừa
không thiếu từng thân cành, cánh hoa, chiếc lá. Nó gom cả vũ trụ (Thiên, Địa,
Nhân) vào một bình hoa nhỏ. Ngôn ngữ trong thơ Haiku cũng thế, cũng được cắt
xén kỹ lưỡng nhưng chuyên chở rất nhiều ý nghĩa. Cũng có thể nói thơ Haiku là
một bức tranh thủy mạc sống động.
Theo
Basho: "Haiku ghi lại một cách đơn giản việc đang xảy ra ở một nơi nào đó,
trong khoảng khắc." Thế nhưng trong Haiku những sự việc đã và đang xảy ra
đã đạt được ý nghĩa xa hơn hiện thực. Bài thơ như một tấm gương, và chúng ta có
thể thấy sự phản chiếu của cái đẹp và sự tĩnh lặng.
Nhà
thơ William Wordworth (1770 - 1850) định nghĩa thơ như là "Sự xúc động
được hồi tưởng trong tĩnh lặng". Thơ Haiku Nhật Bản đúng như lời định
nghĩa trên cộng thêm ý nghĩa sâu xa và sự tôn vinh cái đẹp.
Theo
Reginald Horace Blyth (1898 - 1964) về thơ Haiku: "Đó là ngón tay chỉ vào
mặt trăng... Nếu bàn tay đeo đầy trang sức lộng lẫy, e ta sẽ quên mất điều mà
ngón tay muốn chỉ tới." (3).
Thơ
Haiku đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ 17 và 18. Cho đến hôm nay Haiku vẫn được gìn
giữ và phát triển.
Nói
đến thơ Haiku là phải nói đến ba bậc thầy vĩ đại của Nhật Bản trong lãnh vực
Haiku của thế kỷ 17 và 18. Bước qua thế kỷ 19, chúng ta có thêm nhà thơ Masaoka
Shiki:
1.
Thiền sư Matsuo Basho (1644-1694).
Ông
được thừa nhận là người đã khai sinh ra thơ Haiku. Ông mang âm hưởng sâu thẳm
của Thiền Tông vào thơ. Haiku của Basho lúc nào cũng thanh thản trong mênh mông
biển Thiền. Ông còn mang cả tinh thần Phật giáo vào thơ. Bài thơ nổi tiếng của
ông là bài thơ "Con Ếch" trong tập "Xuân Nhật" (Haru no
hi,1686) viết chung với môn đồ:
The
old pond;
A
frog jumps in, -
The
sound of the water.
Ao
xưa;
Con
ếch nhảy vào, -
Nước
xôn xao.
Along
this road
Goes
no one,
This
autumn eve.
Dọc
theo con đường
Không
bóng người,
Chiều
thu.
The
first snow,
Just
enough to bend
The
leaves of the daffodils.
Cụm
tuyết đầu tiên,
Chỉ
vừa đủ uống cong
Những
chiếc lá thủy tiên.
Spreading
a straw mat in the field,
I
sat and gazed
At
the plum blossoms.
Trải
chiếu trên cánh đồng,
Tôi
ngồi nhìn đăm đăm
Những
cành hoa mận nở.
Sweeping
the garden,
The
snow is fogotten
By
the broom.
Quét
sân
Tuyết
bị lãng quên
Trong
chiếc chổi
2.
Yosa Buson (1716 - 1783).
Yosa
Buson
Ông
sinh sau Basho gần một thế kỷ. Ông có công đưa Haiku trở lại, sau khi Haiku đã
dần chìm trong quên lãng từ khi Basho qua đời. Buson còn là một họa sĩ tài hoa.
Ông mang vào thơ Haiku màu sắc lãng mạng mà Basho không có. Ông là bậc kỳ tài
trong cả hai lãnh vực thi ca và hội họa.
Night
deepens,
And
sleep in the villages;
Sounds
of falling water.
Đêm
sâu,
Và
ngủ yên trong những ngôi làng;
Âm
thanh tiếng nước chảy.
What
happiness,
Crossing
this summer river,
Sandals
in hands!
Hạnh
phúc nào hơn,
Khi
lội qua con sông mùa hạ,
Với
đôi dép trên tay!
The
halo of the moon,-
Is
it not the scent of plum-blossoms
Rising
up to heaven?
Hào
quang của ánh trăng,-
Có
phải hương thơm của hoa mận
Tỏa
ngát lên trời?
A
kite, -
In
the same place
In
yesterday's sky!
Con
diều bay,-
Cùng
một chỗ
Trên
bầu trời ngày hôm qua!
Kobayashi
Issa
Issa
có một cuộc đời bất hạnh. Mẹ mất sớm, ông phải sống với người mẹ ghẻ. Lớn lên
lập gia đình, 5 người con của ông cũng chết sớm. Người vợ ông yêu thương cũng
qua đời trước ông. Nhưng thơ ông lại mang đầy tính chất nhân bản. Ông trang
trải tình yêu thương dịu dàng với vạn vật lên thi ca của ông.
"The
peony was as big as this,"
Says
the little girl,
Opening
her arms.
"Hoa
mẫu đơn nở lớn như thế này,"
Cô
bé nhỏ nói,
Theo
đôi cánh tay mở.
The
sparrows
Are
playing hide-and-seek
Among
the tea-flowers.
Những
con chim sẻ
Đang
chơi trốn tìm
Giữa
những đóa hoa trà.
Reflected
In
the eye of the dragon-fly
The
distant hills.
Phản
chiếu
Trong
mắt con chuồn chuồn
Những
qủa đồi xa xa.
Grasshopper,-
Do
not trample to pieces
The
pearls of bright dew.
Châu
chấu,-
Không
được đạp vỡ vụn
Những
hạt sương như ngọc long lanh.
4.
Masaoka Shiki (1867 - 1902)
Sau khi Issa qua đời. Thơ Haiku một lần nữa, gần như chìm vào lãng quên. Phải mất hơn nửa thế kỷ sau. Shiki mới vực sống dậy thơ Haiku. Ông kêu gọi hãy tự nhiên "cắt bỏ những trạng từ và động từ". Shiki là người đầu tiên đưa khuynh hướng hiện thực vào Haiku. Cho đến ngày nay, Haiku còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của ông.
Hanging
a lantern
On
a blossoming bough, -
What
pains I took!
Treo
lồng đèn
Trên
cành cây trổ hoa, _
Nỗi
đau này tôi hái!
Tranquillity:
Walking
alone;
Happy
alone.
Trong
tĩnh lặng:
Bước
chân một mình;
Với
hạnh phúc lẻ loi.
How
long the day:
The
boat is talking
With
the shore.
Ngày
dài bao lâu:
Chiếc
thuyền đang nói chuyện
Với
bãi bờ.
The
sandy shore;
Why
are they making a fire
Under
the summer moon?
Trên
bãi cát;
Tại
sao họ đốt lửa
Dưới
ánh trăng mùa hè?
VP
----------------
Ghi
chú:
Những
bài thơ trên được Việt Phương dịch từ bản tiếng Anh trong cuốn "Silent Flowers" (A
Collection of Japanese Haiku", Edited by Dorothy Price), (Hallmark Card,
Inc., 1967. Selected from "Haiku", Volumes 1-4, by R.H. Blyth,
Hokuseido Press, Tokyo, Japan, 1960).
(1)
Thật ra thơ HaiKu lúc đầu mang sắc thái trào phúng. Thiền sư Matsuo Basho đã
thổi âm hưởng sâu thẳm của Thiền Tông vào để Haiku được phát triển mạnh.
(2)
A Tagore Reader, by Amiya Chandra Charavarty, (New York: Macmillan, 1961, p.
254)
(3)
R.H. Blyth: Haiku (Hekuseido Press, Tokyo, Japan, 1960, Vol. 3, P.1).
Tài
liệu tham khảo: Wikipedia.
Hình
ảnh: Internet.
No comments:
Post a Comment