tản mạn Nguyễn Âu Hồng
Bài một: Cây Đa Bên Cầu
Cầu Bồng Sơn cũ nay
chỉ còn vài nhịp (Ảnh Báo Bình Định)
Sông Lại Giang nhìn từ
cầu Bồng Sơn cũ về phía hạ lưu (Ảnh Báo Bình Định))
Cây đa bên cầu Bồng Sơn ấy từng
được nhiều nhà văn nhà báo biết đến. Do vị trí không thể loại trừ khi chụp ảnh
chiếc cầu trên QLI qua sông Lại Giang bị giật sập một nhịp sát bờ bắc, cây đa
mặc nhiên xuất hiện trong ảnh, không hậu cảnh là tiền cảnh. Ký giả Lê Minh đã
nhiều lần cho đăng những bức ảnh chụp chiếc cầu có cây đa này trên nhật báo Tự
Do, Quyết Tiến những tháng cuối năm 1966 đầu năm 1967 kèm theo ký sự của Lê Ký,
Chàng Âu, Kim Hùng, Văn Phúc.
Nhưng phải đợi đến khi giáp mặt
với Trần Hoài Thư cây đa bên cầu ấy mới đi vào trong thơ, bật lên thành thơ.
Cây đa đứng bên trái QLI, bờ bắc
sông Lại Giang cuối thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Thị trấn Bồng Sơn thời điểm ấy buồn
thảm như thế này đây:
Thị
trấn nằm hai bờ quốc lộ
Vỉa
hè loang lở đường mương cong
Những
quán bên đường nghèo trống gió
Những
cô hàng buồn như tản cư
Làm sao thị trấn trung tâm có
được chút sinh khí khi mà tình hình chung trong cả quận Hoài Nhơn không có gì
sáng sủa:
Bồng
Sơn mùa nước dâng sông Lại
Ngày
sũng loang trên những mảng dừa
Mặt
trận đổ theo bìa Đệ Đức
Nghe
cận kề lửa hướng Tam Quan
Bồng
Sơn, mây ám toàn tin dữ
Chiều
chưa buông, quận đóng năm giờ
Giặc
chiếm cận sơn, người chạy loạn
Còn
lại bên cầu, trơ trọi cây đa.
Cây đa đứng trơ trọi một mình bên
cầu, đối diện với quận đường quận Hoài Nhơn. Do tình hình căng thẳng, vừa hết
giờ hành chánh, năm giờ chiều là quận đóng cửa. “Quận đóng năm giờ” không đơn
giản chỉ là đóng cửa không tiếp dân mà đóng cổng vào bằng những khung sắt căng
thép gai và cả một hệ thống phòng thủ, mìn claymore quay mặt ra ngoài.
Chỉ với tám câu thơ thôi mà tường
trình chi tiết tình hình của cả một quận cực bắc tỉnh Bình Định thời chiến
tranh ác liệt. Cái hay xuất thần trong hai khổ thơ này là sự xuất hiện của cây
đa với vị trí và dáng vẻ đặc biệt của nó: Đứng một mình bên dòng Lại Giang,
ngay nơi đầu cầu trống trải, không đình miếu, đến cái thủ kỳ cũng không, nhưng
bên gốc vẫn có ông táo, bếp lò, tro than, bình vôi, lư hương tàn lạnh như những
cây đa thường thấy ở đầu làng quê Việt Nam. Cây đa cao lớn nhưng không rậm rạp
cành nhánh này theo phát hiện của thi sĩ vừa là chứng nhân của chiến cuộc vừa
là niềm an ủi, là chỗ dựa tâm linh của những người dân đang khốn đốn.
Họ là những thường dân, phần lớn
là ông già bà cả, đàn bà trẻ con, nạn nhân chính của chiến cuộc. Đã đành, họ ở
giữa làn tên mũi đạn mà còn là đối tượng giành giật của cả đôi bên. Họ luôn
được khuyến dụ “một tấc không đi, một ly không rời” hoặc “về với tình thương,
về với quốc gia”.
Cây
đa. Có mặt khi nào nhỉ
Có
phải nơi này là quê hương
Có
phải mỗi con người trôi dạt
Cất
trong tim: bóng mát thiên đường.
Tình hình như dầu sôi lửa bỏng,
dân chúng tối tăm mặt mũi dắt díu nhau chạy loạn, không biết nương tựa vào đâu
thì cây đa xuất hiện: bóng mát thiên đường.
Cái hay của bài thơ còn ở chỗ:
khổ sau bổ nghĩa cho khổ trước, khổ trước đẩy cảm xúc dồn nén xuống khổ sau. “Giặc chiếm cận sơn
người chạy loạn” ở khổ thứ ba giúp các bạn đọc
chưa trải qua chiến tranh hiểu được câu cuối của khổ đầu: “Những cô hàng buồn
như tản cư”.
Rồi toàn bộ tình hình căng thẳng,
sục sôi lửa đạn, cuối cùng ập lên số phận của một người phụ nữ:
Cây
đa. Vươn giữa trời bi lụy
Những
thổ thần hoang lạnh lư nhang
Lửa
cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị
ra sông, ơi ới đoạn trường.
Trên kia tôi có dùng chữ “tường
trình” tuy phục tài thi sĩ làm thơ với cái nhìn sắc sảo của người viết văn
xuôi, nhưng cũng có ý nói: tác giả tuy nhập cuộc nhưng chưa thực sự là người
trong cuộc. Tới đây, với tiếng “chị” thân thương thì thi sĩ đã là người trong
cuộc. Thi sĩ cùng đau với cái đau của chị mình, của đồng bào mình ruột thịt.
Với tiếng “chị” thân thương, bài thơ đã mang tính nhân bản rộng lớn.
Cây đa tuy trơ trọi nhưng vươn
cao, đứng sừng sững bên kia quốc lộ trước quận đường. Tuy quận đường và chi khu
ở hầu hết các quận thời chiến cùng đặt chung trong một khuôn viên, nhưng chi
khu là quân sự, quận là đơn vị hành chánh. “Quận đóng năm giờ” cũng có nghĩa là
chi khu bắt đầu phòng thủ trước khi trời tối, và đây cũng là khía cạnh tế nhị
của bài thơ.
Cây đa đứng trước quận (chi khu),
vươn cao nên “chứng kiến” mọi diễn biến tình hình chiến sự đang căng thẳng sục
sôi và cảnh ngộ khốn cùng của những thường dân (civilians).
Những thường dân nạn nhân chiến
cuộc này phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn chạy loạn, những “cô hàng buồn như tản
cư” và cuối cùng là:
Lửa
cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị
ra sông, ơi ới đoạn trường.
Đây chính là đỉnh điểm của bi
kịch, là hình ảnh đau thương, là tiếng kêu thống thiết làm nên cái đẹp nghẹn
ngào của toàn bài thơ, một bài thơ đáng ra đã đi vào lòng nhân loại vì tính
nghệ thuật và tính nhân bản của nó.
Nguyễn Âu Hồng
May
2013 - Feb 2015
CÂY ĐA BÊN CẦU
Thị
trấn nằm hai bờ quốc lộ
Vỉa
hè loang lở đường mương cong
Những
quán bên đường nghèo trống gió
Những
cô hàng buồn như tản cư
Bồng
Sơn mùa nước dâng sông Lại
Ngày
sũng loang trên những mảng dừa
Mặt
trận đổ theo bìa Đệ Đức
Nghe
cận kề lửa hướng Tam Quan
Bồng
Sơn, mây ám toàn tin dữ
Chiều
chưa buông, quận đóng năm giờ
Giặc
chiếm cận sơn, người chạy loạn
Còn
bên cầu trơ trọi cây đa
Cây
đa, có mặt khi nào nhỉ
Có
phải nơi này là quê hương
Có
phải mỗi con người trôi dạt
Cất
trong tim: bóng mát thiên đường.
Cây
đa vươn giữa trời bi lụy
Những
thổ thần hoang lạnh lư nhang
Lửa
cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị
ra sông, ơi ới đoạn trường
Cây
đa. Ngàn rễ đâm lòng đất
Như
tấm lòng người với Bồng Sơn
Đa
bám làng, tôi đi bám đất
Đất
và làng, thương quá quê hương.
Trần Hoài Thư
(Ô
CỬA - Thi tuyển toàn tập, Thư Ấn Quán tái bản, 2011)
No comments:
Post a Comment