Saturday, December 5, 2015

TỔN THẤT CỦA THƯỜNG DÂN TRONG CHIẾN TRANH VIET NAM QUA THƠ TRẦN HOÀI THƯ



tản mạn Nguyễn Âu Hồng


Bài một: Cây Đa Bên Cầu


Cầu Bồng Sơn cũ nay chỉ còn vài nhịp (Ảnh Báo Bình Định)

Sông Lại Giang nhìn từ cầu Bồng Sơn cũ về phía hạ lưu (Ảnh Báo Bình Định))

Cây đa bên cầu Bồng Sơn ấy từng được nhiều nhà văn nhà báo biết đến. Do vị trí không thể loại trừ khi chụp ảnh chiếc cầu trên QLI qua sông Lại Giang bị giật sập một nhịp sát bờ bắc, cây đa mặc nhiên xuất hiện trong ảnh, không hậu cảnh là tiền cảnh. Ký giả Lê Minh đã nhiều lần cho đăng những bức ảnh chụp chiếc cầu có cây đa này trên nhật báo Tự Do, Quyết Tiến những tháng cuối năm 1966 đầu năm 1967 kèm theo ký sự của Lê Ký, Chàng Âu, Kim Hùng, Văn Phúc.
Nhưng phải đợi đến khi giáp mặt với Trần Hoài Thư cây đa bên cầu ấy mới đi vào trong thơ, bật lên thành thơ.
Cây đa đứng bên trái QLI, bờ bắc sông Lại Giang cuối thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Thị trấn Bồng Sơn thời điểm ấy buồn thảm như thế này đây:

Thị trấn nằm hai bờ quốc lộ
Vỉa hè loang lở đường mương cong
Những quán bên đường nghèo trống gió
Những cô hàng buồn như tản cư

Làm sao thị trấn trung tâm có được chút sinh khí khi mà tình hình chung trong cả quận Hoài Nhơn không có gì sáng sủa:

Bồng Sơn mùa nước dâng sông Lại
Ngày sũng loang trên những mảng dừa
Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức
Nghe cận kề lửa hướng Tam Quan

Bồng Sơn, mây ám toàn tin dữ
Chiều chưa buông, quận đóng năm giờ
Giặc chiếm cận sơn, người chạy loạn
Còn lại bên cầu, trơ trọi cây đa.

Cây đa đứng trơ trọi một mình bên cầu, đối diện với quận đường quận Hoài Nhơn. Do tình hình căng thẳng, vừa hết giờ hành chánh, năm giờ chiều là quận đóng cửa. “Quận đóng năm giờ” không đơn giản chỉ là đóng cửa không tiếp dân mà đóng cổng vào bằng những khung sắt căng thép gai và cả một hệ thống phòng thủ, mìn claymore quay mặt ra ngoài.
Chỉ với tám câu thơ thôi mà tường trình chi tiết tình hình của cả một quận cực bắc tỉnh Bình Định thời chiến tranh ác liệt. Cái hay xuất thần trong hai khổ thơ này là sự xuất hiện của cây đa với vị trí và dáng vẻ đặc biệt của nó: Đứng một mình bên dòng Lại Giang, ngay nơi đầu cầu trống trải, không đình miếu, đến cái thủ kỳ cũng không, nhưng bên gốc vẫn có ông táo, bếp lò, tro than, bình vôi, lư hương tàn lạnh như những cây đa thường thấy ở đầu làng quê Việt Nam. Cây đa cao lớn nhưng không rậm rạp cành nhánh này theo phát hiện của thi sĩ vừa là chứng nhân của chiến cuộc vừa là niềm an ủi, là chỗ dựa tâm linh của những người dân đang khốn đốn.
Họ là những thường dân, phần lớn là ông già bà cả, đàn bà trẻ con, nạn nhân chính của chiến cuộc. Đã đành, họ ở giữa làn tên mũi đạn mà còn là đối tượng giành giật của cả đôi bên. Họ luôn được khuyến dụ “một tấc không đi, một ly không rời” hoặc “về với tình thương, về với quốc gia”.

Cây đa. Có mặt khi nào nhỉ
Có phải nơi này là quê hương
Có phải mỗi con người trôi dạt
Cất trong tim: bóng mát thiên đường.

Tình hình như dầu sôi lửa bỏng, dân chúng tối tăm mặt mũi dắt díu nhau chạy loạn, không biết nương tựa vào đâu thì cây đa xuất hiện: bóng mát thiên đường.
Cái hay của bài thơ còn ở chỗ: khổ sau bổ nghĩa cho khổ trước, khổ trước đẩy cảm xúc dồn nén xuống khổ sau. “Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn” ở khổ thứ ba giúp các bạn đọc chưa trải qua chiến tranh hiểu được câu cuối của khổ đầu: “Những cô hàng buồn như tản cư”.
Rồi toàn bộ tình hình căng thẳng, sục sôi lửa đạn, cuối cùng ập lên số phận của một người phụ nữ:

Cây đa. Vươn giữa trời bi lụy
Những thổ thần hoang lạnh lư nhang
Lửa cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị ra sông, ơi ới đoạn trường.

Trên kia tôi có dùng chữ “tường trình” tuy phục tài thi sĩ làm thơ với cái nhìn sắc sảo của người viết văn xuôi, nhưng cũng có ý nói: tác giả tuy nhập cuộc nhưng chưa thực sự là người trong cuộc. Tới đây, với tiếng “chị” thân thương thì thi sĩ đã là người trong cuộc. Thi sĩ cùng đau với cái đau của chị mình, của đồng bào mình ruột thịt. Với tiếng “chị” thân thương, bài thơ đã mang tính nhân bản rộng lớn.
Cây đa tuy trơ trọi nhưng vươn cao, đứng sừng sững bên kia quốc lộ trước quận đường. Tuy quận đường và chi khu ở hầu hết các quận thời chiến cùng đặt chung trong một khuôn viên, nhưng chi khu là quân sự, quận là đơn vị hành chánh. “Quận đóng năm giờ” cũng có nghĩa là chi khu bắt đầu phòng thủ trước khi trời tối, và đây cũng là khía cạnh tế nhị của bài thơ.
Cây đa đứng trước quận (chi khu), vươn cao nên “chứng kiến” mọi diễn biến tình hình chiến sự đang căng thẳng sục sôi và cảnh ngộ khốn cùng của những thường dân (civilians).
Những thường dân nạn nhân chiến cuộc này phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn chạy loạn, những “cô hàng buồn như tản cư” và cuối cùng là:

Lửa cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị ra sông, ơi ới đoạn trường.

Đây chính là đỉnh điểm của bi kịch, là hình ảnh đau thương, là tiếng kêu thống thiết làm nên cái đẹp nghẹn ngào của toàn bài thơ, một bài thơ đáng ra đã đi vào lòng nhân loại vì tính nghệ thuật và tính nhân bản của nó.
Nguyễn Âu Hồng
May 2013 - Feb 2015


CÂY ĐA BÊN CU

Thị trấn nằm hai bờ quốc lộ
Vỉa hè loang lở đường mương cong
Những quán bên đường nghèo trống gió
Những cô hàng buồn như tản cư

Bồng Sơn mùa nước dâng sông Lại
Ngày sũng loang trên những mảng dừa
Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức
Nghe cận kề lửa hướng Tam Quan

Bồng Sơn, mây ám toàn tin dữ
Chiều chưa buông, quận đóng năm giờ
Giặc chiếm cận sơn, người chạy loạn
Còn bên cầu trơ trọi cây đa
Cây đa, có mặt khi nào nhỉ
Có phải nơi này là quê hương
Có phải mỗi con người trôi dạt
Cất trong tim: bóng mát thiên đường.

Cây đa vươn giữa trời bi lụy
Những thổ thần hoang lạnh lư nhang
Lửa cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị ra sông, ơi ới đoạn trường

Cây đa. Ngàn rễ đâm lòng đất
Như tấm lòng người với Bồng Sơn
Đa bám làng, tôi đi bám đất
Đất và làng, thương quá quê hương.

Trần Hoài Thư
(Ô CỬA - Thi tuyển toàn tập, Thư Ấn Quán tái bản, 2011)

No comments:

Post a Comment