Lương Thư Trung
Nhà thơ
Nguyễn Xuân Thiệp cảm ơn và chia sẻ cùng các cử tọa
về những
cảm tưởng của mình trong lần ra mắt sách ở Austin, Texas, năm 2013.
Nhắc
đến tác giả Nguyễn Xuân Thiệp là nhắc đến thơ vì ông đã làm thơ từ trước năm
1954 với bút hiệu Châu Liêm và sau này với bút hiệu Nguyễn Xuân Thiệp. Thi phẩm
Tôi Cùng Gió Mùa là một gắn liền
không thể thiếu với nhà thơ Nguyễn Xuân
Thiệp khi có ai muốn giới thiệu ông với bạn đọc ngoài đời hay trên các diễn đàn
văn học nghệ thuật. Thất thế, Tôi Cùng Gió Mùa, thi phẩm mà nhiều người đọc đều
biết của ông chính là gia tài rất hiếm hoi của một nhà thơ đã làm thơ hơn sáu
mươi năm qua. Thi phẩm này do tạp chí Văn Học (California) xuất bản lần đầu vào
năm 1998 và Phố Văn tái bản vào năm 2012.
Bài
thơ mở đầu của tập thơ là bài Nhịp Bước
Mùa Thu ông đã sáng tác khá lâu, cách nay tròn 61 năm:
“sáng nay. tôi lắng
bước mùa xưa
chim nhỏ. năm nao.
rộn khóm dừa
sông chớm đôi bờ thu
quạnh quẽ
đường dài. son đỏ.
quán lau thưa
nhà ai. phơi áo.
ngoài hiên gió
nắng tắt trưa qua.
lạnh bến chờ
cây ố. sắc tường.
vương phủ ấy
trẻ nghèo. nhặt lá.
ngói rơi. hư
nghìn mùa. sương
khói. dậy âm vang
lộp bộp. hiên sau.
trái rụng vàng
bóng sậu. kêu qua bờ
mía dại
xa nhau. mùa thu. mưa
trong trăng
em đi. nhịp bước dạo
đôi mùa
áo biếc. chìm trong
dáng núi xa
trống lẻ. trường bên.
hờ hững điểm
hoàng thành vừa chợp
giấc mơ trưa
thời đại xây nên lòng
quá khứ
tiếng mùa. hốt gió .
rắc ly tan
này em. nhìn lại
nương cày cũ
mặt đất. âm u. bặt
tiếng đàn
(1954)
(trang 6)
Bài
thơ ra đời vào năm 1954, chắc chắn tác giả lúc ấy còn rất trẻ; và nếu lần dỡ
lại những trang đời, có khi tác giả làm bài thơ này là lúc ông còn ngồi nơi ghế
nhà trường, như có lần tôi đã đọc được mấy vần thơ rất lãng mạn của ông qua bút
hiệu Châu Liêm, lúc tác giả mới 16 tuổi và đang học lớp Đệ Nhị dưới mái trường
trung học, bài thơ “Xa cách”:
“Mấy dặm cát vàng
duyên nối tiếp
Đôi bờ sông rộng mặc
ai đưa
Tôi đâu dám bảo Trường
giang hẹp
Chỉ hận nghìn năm với
bến bờ
Đêm ấy người đi sương
xuống lạnh
Trăng mùa tiễn biệt
sáng mông lung
Tôi đâu dám hẹn ngày
tương ngộ
Người khóc đêm nào
người nhớ không?
Tuổi mới hai mươi đời
xế nửa
Từ nay đâu dám hẹn
tương phùng!
Ai tiễn ta qua vài
bến nước
Với hai sào gió bốn
sào trăng
Ai tiễn ta rơi vài
giọt lệ
Lệ chảy đầy trong đôi
mắt trong
Quấn bàn tay lạnh
trong tà áo
Từ nay xa cách mấy
con sông”
(Xa
cách, Châu Liêm)
Nhắc
lại bài thơ Xa Cách cũng như bài Nhịp Bước Mùa Thu vừa rồi, ta nghe như trong
thơ ông những giã từ đã ươm mầm từ những ngày còn rất trẻ. Hồn thi nhân dường
như ấp ủ những “lắng bước mùa xưa”,
“sông chớm đôi bờ “, “bóng sậu”,
“trống lẻ. trường bên. hờ hững điểm” và đặc biệt đoạn thơ cuối mới nói
hết cái ý của “nhịp bước mùa thu” quả đã đi qua thật rồi và câu thơ “thời đại
xây trên lòng quá khứ”, cả ý lẫn lời đều rất mới lạ và đặc sắc đối với một tác
giả còn rất trẻ ở những ngày xa xưa ấy:
“thời đại xây trên
lòng quá khứ
tiếng mùa. hốt gió .
rắc ly tan
này em. nhìn lại
nương cày cũ
mặt đất. âm u. bặt
tiếng đàn”
Thi
nhân nghe được “tiếng mùa” là một hòa hợp giữa thiên nhiên và con người và đó
cũng chính là một hòa hợp tất nhiên của vũ trụ. Bởi lẽ con người sống là nhờ có
thiên nhiên và thiên nhiên có mặt là do con người biết tên gọi những“tiếng
mùa”, tức là biết nhớ những nắng, những mưa như nhớ những gì thân ái của chính
mình:
“tôi nhãn chín. nhớ
chim mùa cũ
tôi đường dài. nhớ
những hạt mưa thưa
tôi bông sứ. nhớ nắng
hương. vàng lụa
tôi trưa hè. ai tiếng
võng đưa.”
(Nhãn chín nhớ chim mùa cũ, trang 12)
Là
một người mê cây cỏ ruộng vườn, cùng mùa màng ngày cũ, với tôi những chữ dùng
rất thơ như “tôi nhãn chín; tôi đường
dài; tôi bông sứ,; tôi trưa hè”, “chim mùa cũ”, “hạt mưa thưa”, “nắng hương,
vàng lụa”… trong bài thơ với nhiều hoán dụ này tôi nghĩ dây là những chữ dùng
chẳng những rất thơ mà còn rất đặc sắc của tác giả.
Tâm
hồn nhà thơ nào dường như cũng lãng mạn và thi sĩ Nguyễn Xuân Thiệp không là
ngoại lệ. và tôi mường tượng thấy ở ông dường như nhịp tim càng lúc càng đập
nhanh thêm theo những năm tháng lớn dần . Từ những năm 1954, 1956 rồi 1962,
1972, 1973, 1974 … hồn thơ ông ngoài cái cốt cách lãng mạn vốn có trong hồn,
ông còn chạm khắc lại những gì mà thời gian đã để lại trong ông những dấu tích
qua mỗi thời kỳ. Chẳng hạn người đọc bắt gặp ở ông lòng trăn trở với biết bao
mảnh đời hiu quạnh bên mình:
“ơi em bé. hái búp
sen mùa hạ
sen thì hồng. mà tay
nhỏ xanh xao
em hái sen. chiều nay
ra chợ bán
hương hạ nồng. cùng
sợi khói nhà sau”
(Hỏi thăm giọt mưa và nói giùm tôi, trang 24)
Hoặc
nỗi băn khoăn ở tiếng hỏi thầm, nhiều lúc thi nhân làm cho ta nhoi nhói trong
tim và tự trách mình đôi lúc cũng hờ hững, hoặc lãng quên đời:
“xin hỏi đất. và hỏi
thăm hoa cỏ
hỏi giọt mưa. đã rớt
xuống khu vườn
trong gỗ mục. có chồi lên đọt lá
trong tim người. có
tiếng nói nào không.”
(Hỏi thăm giọt mưa và nói giùm tôi, trang 26)
Đăc
biệt có những bài thơ được tác giả sáng tác trong những ngày lao lung nơi đất Bắc, chẳng hạn như bài Ánh Trăng, người đọc mới thấy cái hồn
thơ ở ông không chỉ đơn thuần là yêu với mộng bình thường, mà là một tiếng kêu,
một tiếng gọi tha thiết giữa bốn bề gió cát:
“trăng lên. ồ. môt
vầng hư tưởng
tuổi nhỏ. cười nhô
mặt nước xanh
đâu đó. sông lam chừng trở giấc
rào rào muôn lượn
sáng xô nhanh
gió như chim ngủ
trong tầng lá
phút chốc xôn xao dậy lá cành.
trăng sáng. bạn đường
ai đó thức
nhìn trăng. có nhớ
một mùa xuân.”
(Ánh
trăng, trang 88)
Khúc
ca trường thiên Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị dài 88 câu, nguyên niên hiệu Nguyên
Hòa đời vua Đường Hiến Tông, vì tính cương trực, họ Bạch bị trích biếm ra làm
quan Tư Mã quận Cửu Giang, một hôm gặp người kỹ nữ ở Bến Tầm Dương sau khi nghe
nàng gãy đàn xong, rồi nghe nàng tâm sự về những nỗi vui buồn trong kiếp cầm ca
cùng sự chán nản não nề khi nhan sắc mỗi ngày mỗi phai tàn, quan Tư Mã họ Bạch
mới sực nhớ lại hoàn cảnh bị trích biếm của mình mà nhận ra đây quả là cơ duyên
gặp được người tri kỹ cùng hội cùng thuyền và làm ra khúc ca bất hủ ấy. Còn bài
thơ Ánh Trăng khá dài, với 193 câu,
gồm 6 hồi, giống như một khúc trường ca của Nguyễn Xuân Thiệp, tác giả ghi nơi
sáng tác Nghệ Tĩnh, năm 1980 ứng với những ngày ông còn trong trại tù ngoài
miền Bắc với nỗi khổ nhục của người tù “cải tạo”, làm người đọc có tuổi khá già
như tôi dễ cảm thông được nỗi niềm của tác giả qua những vần thơ khá u ẩn nhưng
cũng chứa đầy hy vọng ở những ngày mùa lao lung khốn khổ biết bao nhiêu:
“trăng khuất. nhưng
mùa sau lại mọc
loài người ơi. nghe
tiếng võng đưa
lên cao. thấy một
vầng trăng ngọc
xuống thấp. còn trong
giấc ngủ mơ
soi bóng thời gian.
hồ nước tịnh
đông phương này. đêm
ủ mật hoa.”
(Ánh Trăng, trang 106)
Viết
về trăng tác giả Tôi Cùng Gió Mùa còn có các bài thơ Mảnh Trăng tặng Nguyễn
Xuân Hoàng, Cổ Nguyệt… là những lần trăng về gõ cửa tâm hồn thi sĩ:
“hồn cổ nguyệt. thức
. hiên khuya
thức trăng. rụng đầy
hoa gạo
hương cây. tóc buông
dài.
trở gối. nằm chờ trống
điểm
lưng trời. cánh vạc
bay”
( Cổ Nguyệt, trang 141)
Trong
thi phẩm này còn nhiều bài thơ chan chứa biết bao nỗi niềm của tác giả như “Giả
sử mai ta về”, “Bếp chiều”, “Những buổi chiều qua đời tôi”, “Thu sang hốt lá
trong vườn”…, nhiều lắm, không kể xiết. Nhưng đọc lại thi phẩm“Tôi Cùng Gió
Mùa” mà không nhắc gì đến bài thơ làm tựa cho toàn tập thì có chút gì chưa
đủ. Thật vậy, bài thơ Tôi Cùng Gió Mùa
được tác giả sáng tác năm 1974, những năm chiến tranh chưa tàn nhưng người đọc
bắt gặp trong thơ tác giả gió mùa dồn dập thổi qua hồn như chưa bao giờ dồn
dập, tha thiết đến thế. Những tiếng gọi “tôi cùng gió mùa, tôi cùng gió mùa ;
gặp lại nhau, gặp lại nhau; hỡi gió mùa, hỡi gió mùa, hỡi gió mùa; gió mùa, gió
mùa; thổi qua, thổi qua” được lập đi lập lại như những điệp khúc ấy, chính là
tiếng kêu không chỉ để cất tiếng kêu cho riêng mình mà còn thầm cầu mong cho
quê hương, cho mọi người và niềm hy vọng được mở ra cùng khắp:
“hỡi gió mùa
đã đến quê hương ta
chiều nay
để thêm một lần gặp
lại
xin hẹn cùng ta
xin hẹn cùng người
một mùa đông ấm lửa”
(Tôi cùng gió mùa, trang 43)
Xưa
nay và ở đâu cũng vậy, các bậc văn nhân thi sĩ thường mượn cảnh gởi ý tình của
mình vào những trang văn thơ ấy. Riêng về gió, thì có lẽ ai ai cũng biết qua
cuốn tiểu thuyết “Cuốn Theo Chiều Gió” của nhà văn Margaret Mitchell, viết lại
cuộc chiến tranh Nam Bắc theo cách nhìn của bà, một người miền Nam nước Mỹ. Rồi
trong văn chương xưa của Việt Nam với Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn cũng mô
tả tình cảnh của người vợ tiễn chồng cùng những cơn gió bụi:
“Thuở trời đất nổi
cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều
nỗi truân chuyên.”
hoặc:
“
Chàng thì đi cõi xa
mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ
gối chăn.
Đoái trông theo đã
cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc,
trải ngần núi xanh.”
hoặc:
“Chàng từ đi vào nơi
gió cát,
Đêm trăng này nghỉ
mát phương nao ?
Xưa nay chiến địa
dường bao,
Nội không muôn dặm
xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh, người
rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa
nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã
chồn,
Nằm vùng cát trắng,
ngủ cồn rêu xanh.
Và
còn nhiều lắm; nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp
cũng không ngoại lệ. Ông cũng gởi gắm hồn mình qua gió, qua trăng. Và thật thú
vị biết bao khi chúng tôi đã tìm được hoàn cảnh bài thơ Tôi Cùng Gió Mùa ra đời
qua lời tự thuật của chính tác giả: “Buổi sáng, uống cà phê xong, nằm trên
chiếc giường nhà binh có trải tấm poncho light, nhìn ra cửa sổ, thấy một cây
vông chỉ còn mươi chiếc lá màu vàng mỏng manh. Sáng hôm sau, chỉ còn hai chiếc
đong đưa đầu cành. Không, tôi không bị ám ảnh vì tác phẩm Chiếc Lá Cuối Cùng
của nhà văn Mỹ kia đâu, mà là điều có thực ở những ngày mênh mang ấy. Lại sáng
hôm sau nữa, không còn một chiếc lá nào trên cây. Nhưng , ô kìa, một đóa vông
đỏ thắm hiện ra như một ảo tưởng của thời chợt khóc chợt cười. Một đóa vông đỏ
dưới thời chiến tranh. Từ nốt nhạc dạo đầu ấy là cả rừng vông nở rộ trong nắng
dội Pleiku. Và gió mùa thổi về. Tôi thấy lòng mình bỗng mở rộng, không giới hạn
nữa. Tôi bắt đầu viết “Tôi Cùng Gió Mùa” trong khung cảnh này.”(*)
Qua
cảm hứng từ sự bừng khai của cả rừng vông cùng nở những cánh hoa màu đỏ thắm ấy
khi gió mùa về, ta mới thấy hết hồn thơ của người nghệ sĩ hòa cùng thiên nhiên
nhưng không quên những bè bạn quanh mình. Con người vừa yêu thiên nhiên vừa yêu
người, nghĩ cho cùng, là người đọc, chúng ta không thể vô tình mà quên đi nét
nhân bản ấy ở người nghệ sĩ được!
“tôi làm thơ
cho bạn bè. cho những
người cùng khổ
cho sấm dội. cho đổ
vỡ. cho mây xa
tôi làm thơ
và con chim màu đỏ
hót một mình. dưới
trời mưa thưa.”
(Con chim màu đỏ hót dưới trời mưa thưa, trang
178)
Tóm
lại, sau 17 năm, kể từ lần xuất bản lần thứ nhứt, nay đọc lại “Tôi Cùng Gió
Mùa” với 188 trang thơ không lời Tựa, không lời Bạt của nhà thơ Nguyễn Xuân
Thiệp, tôi mới nhận ra thi phẩm này có cái nét đặc sắc của nó qua tài chọn chữ,
gieo vần cùng chất lãng mạn trong một tâm hồn rất nghệ sĩ ở tác giả và cho dù
đã trải qua 61 năm, kể từ lúc còn ngồi ghế nhà trường cho đến hôm nay, mà nay
ngồi đọc lại những vần thơ cũ tôi vẫn thấy hồn mình man mác những buồn vui cùng
gió, cùng trăng và xúc động cùng những vui buồn của tác giả. Quả thật cái tài
của thi nhân là đã mang đến cho người đọc những vần thơ chan chứa biết bao
những nỗi niềm đã đành, mà thời gian dù có đi qua nhưng thơ ông vẫn còn ở lại,
ít nữa cho tới bây giờ và hy vọng mãi mãi sau này, cho đời sau và cho nhiều thế
hệ sau nữa! Mong lắm thay!
Lương Thư Trung
Houston,
ngày 10-12-2015
No comments:
Post a Comment