tản mạn Nguyễn Âu Hồng
Bài hai: Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện
Tháp Bánh Ít (Tháp
Bạc) huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định - Ảnh Wikimapia
( Doanh trại đơn vị
Thám kích của Trần Quí Sách nằm phía sau tháp chính)
Trong một bài tự thuật kể lại
những ngày cầm súng ngủ bờ ngủ bụi ở tỉnh Bình Định, nhà văn Trần Hoài Thư có
nêu tên các thi sĩ gốc tỉnh này, nhưng không thấy nói đến hai câu thơ gọi đò
nổi tiếng của Quách Tấn và hai câu thơ
về người chị gánh thóc dọc bờ sông của
Hàn Mặc Tử:
Nửa
đời khói mây chìm bóng mộng
Gọi
đò một tiếng lạnh hư không
Hai câu thơ mà âm vang còn vọng
mãi trong thi ca Việt Nam này của thi sĩ Quách Tấn, trong cảnh chiến tranh ác liệt, đã trở thành huyễn
mộng, khi mà:
Lửa
cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị
ra sông, ơi ới đoạn trường
Gần gũi chăng là hai câu thơ về
người chị gánh thóc của Hàn Mặc Tử:
Chị
ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc
bờ sông trắng, nắng chang chang.
Cho dẫu Trần Hoài Thư không đề
cập thì hai câu thơ về người chị “ơi ới đoạn trường” ở bến đò Trường Lưu sông
Lại Giang vẫn được xem như là câu trả lời. Trả lời cho cả Quách Tấn lẫn Hàn Mặc
Tử.
Nhưng, điều đáng nói ở đây là:
người chị nạn nhân chiến cuộc của thi sĩ Trần Hoài Thư và người chị gánh thóc
trong thời bình của thi sĩ Hàn Mặc Tử đều là một người phụ nữ Bình Định. Phải
chăng đây là cuộc hội ngộ kỳ diệu của định mệnh?
Mà cần gì phải viện đến Quách
Tấn, Hàn Mặc Tử. Sao không dẫn chính thơ Trần Hoài Thư. Tiếng kêu đoạn trường
của người chị ở bến đò Trường Lưu làm nhớ đến người chị trong “Khi Chị Về” để
rồi hai hình ảnh đối lập làm ta đau nhói tâm can:
…Chị
có về trăng mười sáu trăng lên
Một
giọt sương cũng lạnh mình lóng lánh
Hay
giọt lệ của một thời con gái
Hay
giọt vui của tuổi chớm hoa xuân
Mười
sáu trăng tròn hồn chị bâng khuâng
Đêm
ra tắm ngoài bến sông im vắng
Chiếc
gáo dừa múc trăng. Trăng động
Dòng
suối trăng lai láng cả bình nguyên
Ai
khỏa thân lồ lộ cả trăm miền
Chị
có thẹn khi trăng nhìn trên lá
Khi
chị về gió len bờ khe hạ
Mơn
man từng nụ thắm. Mơn man
Khi
chị về em quá ngẩn ngơ
Cho
em gửi theo vầng trăng kỷ niệm.
Chao ơi, những câu thơ vừa lung
linh diễm tuyệt vừa gợi cảm đến mê hồn. Dù là “khỏa thân lồ lộ cả trăm miền” mà
vẫn trinh bạch, tinh khiết không chút bợn xác thịt. ( Mượn nhóm từ Bửu Ý - Đỗ
Long Vân tặng cho tranh lõa thể của Đinh Cường.)
Đã có thi sĩ nào viết về “bờ khe
hạ”, viết về “nụ thắm” của con gái tuổi
chớm xuân mà hồn nhiên, trong sáng và vô vị lợi như Trần Hoài Thư chưa?
Khi
chị về gió len bờ khe hạ
Mơn
man từng nụ thắm. Mơn man.
Sao gọi là vô vị lợi? Thi sĩ nhà
ta cận thị nặng, từ bờ nhìn ra chỉ thấy bao la trăng động, lóng lánh trăng xao,
có thấy gì cho rõ đâu? Vô vị lợi vì chỉ là tưởng tượng, không mang tội nhìn
trộm con gái tắm truồng! Tưởng tượng thôi đã đủ ngẩn ngơ:
Khi
chị về em quá ngẩn ngơ
Cho
em gởi theo vầng trăng kỷ niệm.
Rõ ràng chỉ là trăng gió mông
lung, đến kỷ niệm cũng mơ hồ.
Mà nào chỉ riêng một mình thi sĩ
ngẩn ngơ. Đã nói “trăng nhìn trên lá” thì cây cỏ cũng ngẩn ngơ. Biết đâu chừng
chim đêm cũng ngừng bay, cá sông ngừng lội, chim te te im tiếng, bìm bịp ngưng
kêu dù con nước đương ròng, vì tất cả đều ngẩn ngơ. Hãy cứ ngẩn ngơ mà bồi đắp
niềm đam mê cho thêm phong phú tâm hồn.
Tiện đây lan man một chút. Không
biết Trần Hoài Thư và Lưu Nguyễn có quen nhau không, nhưng thấy hai thi sĩ có
những mối rung cảm gần như trùng hợp:
Muốn
là gió len qua từng sợi tóc
Nhè
nhẹ mơn man phiến má hồng
(Lưu Nguyễn - Bài Thơ Cho Em)
Khi
chị về gió len bờ khe hạ
Mơn
man từng nụ thắm. Mơn man.
(Trần Hoài Thư - Khi Chị Về)
Biết đâu chẳng có mối quan hệ nào
mà chỉ là sự gặp gỡ của hai tâm hồn mẫn cảm
để cùng cống hiến cho thi ca Việt Nam những câu thơ trữ tình ướt át và
mê đắm.
Nhưng, đau thương xiết bao khi
những nhan sắc mà các thi sĩ ngưỡng mộ đã hoặc đang đứng trước nguy cơ bị chiến
tranh và bạo lực bức hại. Không riêng gì người chị “gánh thóc” của Hàn Mặc Tử,
người chị tắm sông trong đêm trăng huyễn hoặc của Trần Hoài Thư hay người em
với “phiến má hồng” của Lưu Nguyễn mà biết bao người phụ nữ xinh đẹp nhưng yếu
đuối đều rất dễ bị đẩy vào cảnh ngộ thương tâm của người chị trong “Cây Đa Bên
Cầu”:
Lửa
cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị
ra sông, ơi ới đoạn trường
Phải gấp lên. Phải dóng lên tiếng
nói cảnh báo bằng những dòng thơ vừa mượt mà nhan sắc phụ nữ vừa thấm đẫm tình
người, những dòng thơ tuy không phải là lá chắn che chở trực tiếp những người
chị, người em yếu đuối, nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, nhưng là một trong
những cách thế phòng vệ từ xa, là tiếng chuông đánh động lương tâm nhân loại.
Phải gấp lên, đừng để thảm cảnh ở
Chợ Huyện xảy ra lần thứ hai:
Ta
đã về nhìn bầy chim nhỏ cút côi
Chúng
ủ rũ, như lòng ta ủ rũ
Lũ
bé quỳ bên xác người cô trẻ
Đặt
chùm hoa, mếu máo gọi cô về
Cô
không về, cô bỏ dạy, cô đi
Cô
bỏ chúng con cô về xứ khác
Ta
cắn bầm môi, em ơi, ta khóc
Em
không về em cũng bỏ thanh xuân
Em
bé quê ơi, cho ta nhành bông
Một
nhành bông quỳ vàng như màu áo
Ta
đặt lên em. Trống trường ảo não
Như
những hồi mặc niệm em tôi
Ta
đã về, và đã trễ, em ơi…
(Đêm tiếp cứu chợ Huyện - Ô CỬA,
Thi tuyển toàn tập - Thư Ấn Quán tái bản 2011)
Chưa từng có bài thơ nào mà khi
đọc tim tôi nhói đau, lòng tôi quặn thắt như bài thơ đẫm nước mắt này của Trần
Hoài Thư. Khi biết cô giáo trẻ chết thảm ấy là một nữ giáo sinh Sư phạm Quy
Nhơn về huyện Tuy Phước - Bình Định thực tập, ngủ nhờ trong khuôn viên quận
đường và bị bức hại, tôi cũng “cắn bầm môi” và tôi nhận được thông điệp toát ra
từ nội dung bài thơ. Thông điệp khá rành mạch: đừng để bị trễ. Đừng chậm trễ! Hãy
cứu lấy những cô gái, cô giáo trinh trắng, những em bé và những thường dân
không có khả năng tự vệ. Đừng để bị chậm trễ!
Làm sao để không phải thốt lên
tiếng kêu tuyệt vọng: “Ta đã về, và đã trễ, em ơi!”.
May
2013 - Feb 2015
Nguyễn Âu Hồng
No comments:
Post a Comment