Bửu Ý
Nhà thơ Lê Văn Ngăn
Đọc những trang thơ VIẾT DƯỚI BÓNG QUÊ NHÀ như đang nghe thầm thì
bên tai một câu chuyện dài với từng chương, từng hồi: Trên sân ga, Ánh sáng nhỏ
từ căn gác nhỏ, Đến và đi, Một chuyến xe đêm, Quán bên đường, Nơi đến…
Những chương hồi trong từng chuỗi ngày và trong cả một đời của một
lữ khách ruổi rong trên con đường thiên lý bất định, tít tắp, ngoằn ngoèo lên
xuống, không phải dài thẳng mạch mà chạy vòng quanh như thể bọc quanh những ngọn
đồi hay là uốn éo theo từng khuỷu sông để rồi quày trở lại điểm xuất phát.
Bởi Lê Văn Ngăn ra đi từ “bếp lửa”, cái đốm lửa hồng là điểm giàu
giữa một bức tranh từng nuôi nấng anh, luôn đeo đẳng anh suốt dặm đường dài và
như anh sớm sớm quay về.
Từ đó người đọc hình dung hành trình của anh cuốn lại vòng tròn
như con cuốn chiếu, trên đó từng cung tròn tượng trưng cho từng trạm dừng chân,
như trường đình với đoản đình ngày xưa, mà điểm đi và điểm đến là một: NHÀ, bếp
lửa, đường đi, ánh đèn, quán, sông, phòng trọ, phố, quán, đường đi, ánh đèn,
NHÀ.
Thơ của Lê Văn Ngăn ngập tràn hình ảnh của đêm và con đường. Trong
số lượng 46 bài thơ thu vén ở đây, hết 28 bài nói về đêm, 27 bài nói về con đường.
Đúng chóc là một gã dạ du
.
Tẩn mẩn đọc là thấy: đêm
khuya (trang 9), trong đêm (13), mưa đêm (15), đêm đêm (25) đêm thị trấn
(29), đêm nay tiếng gọi (31), đêm tối (35), đêm thị xã (37), đêm khuya và
những đêm khuya (39), mưa đêm
(41), đêm nằm lắng nghe tiếng còi tàu
(43), đêm mưa tiếng gọi đò (47), đêm đêm ở nơi xa (49), đêm đêm con cái bước xa dần (51), đêm khuya (53), bóng đêm (55), mưa khuya
(57), đêm lên đèn (61), đêm khuya (63), trời đêm (67), đêm khuya (69), đêm thời
ấu thơ (71), mưa đêm (73), chặng đường
đêm (75), bóng đêm (81), những đêm khuya (85), trời đêm (87), những đêm khuya nào (95).
Và lắm ngả đường trứt nhánh mời mọc người thơ không ngớt bày ra cuộc
lữ với chị em mặt trời mặt trăng vui lòng rọi sáng trên đầu: những ngả đường (5), một chặng đường bất hạnh (11), con đường nằm lặng im (17), đường dài (19, 21), đường cũ, đường quá khứ (23), đường
đời xa tắp (27), một đoạn đường
(29), đường đời (35), những chặng đường (37), chặng đường mưa (45), đường đời có cha mẹ anh em (47), dọc đường lịch sử (49), đường dốc (53), quét dọn những chặng đường (55), mặt đường (57), các con đường
(59), đường dài hun hút (61), con đường hạnh phúc (63), con đường hoa (65), chặng đường đêm (75), con đường
em đã chọn (77), rời bỏ con đường
lãng mạn rỡm rờ (79), nhiều chặng đường,
dọc đường (85), dọc đường (87), chặng đường mệt nhọc (89), đường bụi khô (91), đường tối (95).
Đọc những trang thơ này như dõi theo từng bước chân gã lang bạt kỳ
hồ, bước thấp bước cao, có khi lốc thốc, lụp bụp, lộp cộp, vụt ra ngõ rồi thụt
tới thụt lùi, dẫm chân tại chỗ, xàng xê, nhưng rồi dứt khoát như “chiến sĩ một
đi”, hay cũng có khi bước chân “dùng dằng” như Thẩm Oánh bảo, rồi có lúc như đi
trê trứng, nhẹ như bông gòn, và gặp mùa bị gọi “lên đường” như trường hợp Nguyễn
Tuân thì cất bước trăm ngả, phiêu phiêu một cách vô thanh như hút mất vào nhựa
đường... Khăn gói đưa những chú dế mèn của Tô Hoài, đi từ mắt mà lọt thỏm vào
con hẻm khuya, quanh quất dăm địa chỉ tới lui hoài hủy, cho tới cả lúc cỡi con
ngựa sắt cũng lạch cạch đạp tới một vòng đạp lại một vòng, tần ngần bước chân
như đánh mất cái gì mà thật ra chẳng có gì để mất. Cứ như thể bị câu hát của Trịnh
Công Sơn đuổi sau lưng: “Ta bước bước đi, bước bước hoài trên quê hương dấu yêu
này”.
Thơ Lê Văn Ngăn là một thể loại thơ đi bộ. Thơ túc tắc từng bước.
Lừng chừng chân cầu, thơ có khi dừng lại còn có khi rẽ vào những mệnh đề phụ,
như thể là những lời nói thêm ở giữa hai dấu ngoặc: nếu… (trang 19, 23, 55, 59,
77, 89, 89, 91), dù… (trang 5, 55, 71, 79, 89). Nếu mệnh đề chính là lòng đường
thì mệnh đề phụ là lề đường. Có khi đi ở lòng đường một cách đường đường chính
chính, nhưng có khi đi bên lề đường và lề đường vẫn không kém phần quan trọng.
Mệnh đề phụ là mệnh đề của người nghèo vì đó là lời nói thêm, nói vớt, nó thắt
bóp lại lời nói nào quá đà nhưng, ngược lại, nơi rộng biên lề tưởng tượng, chắp
cánh cho khả thể, giả định. Đó bất quá là sự mặc cả với đời:
…Nếu chỉ một mình, anh không
nhìn ra sự thật (trang 19). …Mai sau,
nếu em cần người an ủi em trong cuộc sống nhọc nhằn (77). …Nếu không tình cờ gặp chị (91). …Dù lưu lạc nơi đâu,
Trăng vẫn
ở cùng anh như người bạn đường chung thủy (71). …Dù nhà thơ làm việc trong ánh sáng và chỉ
làm việc ngoài bóng đêm (55).
Valéry từng ví von văn xuôi và thơ giống như một đàng là người đi
thuyền qua sông nhằm đến một nơi nào đó và, đàng khác, cũng là người đi thuyền
qua sông nhưng chỉ để tâm đến chuyện đi thuyền qua sông. Lê Văn Ngăn cũng chỉ để
ý đến đường đi của mình.
Giữa cõi đời này, như hỏi mấy ai buồn để ý đến con đường trên mình
đi, mình đếm bước tới lui. Có ai vặn lui đồng hồ, có ai quay ngược lại những
thước phim cũ kỹ qua đó chẳng có gì khác ngoài những bước đi, ngoài con đường
trống trơn, ngoài bóng người lầm lũi chẳng để ý đến ai và chẳng ai để ý đến
mình. À, không. Anh có để ý. Anh có để ý đến “những người bình thường” những chị
quét đường, như chị Sáu cà phê mà anh “nợ vài ánh mát dịu dàng, như cô bán quán
mà anh thầm “xin cô bán cho tôi chút ảo tưởng đang ngồi ở mái nhà mình”, như chị
Ba bán bánh mì ở Phan Rang đã “vớt” anh về nhà giữa lúc lêu bêu. Rõ ràng Lê Văn
Ngăn nhờ tâm hồn thơ của mình giảm thiểu đến vô hiệu hóa mọi trở lực trên đường
đi và trở nên giàu có.
Tôi mượn lời của Rilke để khép lại bài viết này:
“Câu thơ chẳng phải làm bằng tình cảm mà bằng kinh nghiệm sống. Muốn
viết một câu thôi, phải nhìn thấy nhiều thành phố, nhiều người và đồ vật và phải
biết cái chuyển động làm cho những cánh hoa bé bỏng nở ra ban mai. Phải nhớ cho
được những con đường trong các xứ sở lạ mặt, những cuộc gặp gỡ bất ngờ cùng những
lúc chia tay tiên liệu từ trước… Những ngày thơ ấu, những buổi sáng trên bờ biển,
biển nói một cách tổng quát và tùng biển nói riêng, những đêm đi xa và tơ tưởng
đến ngần ấy thứ vẫn còn chưa đủ.”
B.Y
(Nguồn: Trần Đình Sơn Cước)