Võ Chân Cửu
Nhà thơ Võ Chân Cửu
Nhà thơ Võ Chân Cửu xuất hiện từ trước 1975, có thơ
trên các tạp chí đương thời Bách Khoa, Tư Tưởng, Văn, Khởi Hành, Thời Tập… Về thơ, Võ Chân Cửu có
các tập Tinh Sương, Đại Mộng, Ngã Tư Vầng Trăng, Ngọn Gió…Những năm
gần đây, anh viết bút ký và tùy bút văn học, gồm trong hai tập 22 Tản Mạn và
Theo Dấu Nhà Thơ. Cả trong hai cuốn này, Võ Chân Cửu đều nói về thơ. Và theo
nhà văn Chu Ngạn Thư, “Viết về thơ mà lôi cuốn được người đọc, thì
các nhà thơ có ưu thế vì bút lực dồi dào, như Võ Chân Cửu đang chứng minh…”
Nguyễn có gặp Võ Chân Cửu một lần tại nhà các con
Ưng Lang ở Garden Grove, CA. trong dịp giới thiệu 3 cuốn sách của mình. Gần đây
lại được Nguyễn Thanh Châu ở Thành Phượng Arizona gởi cho cuốn Theo Dấu Nhà Thơ
nên mối thân tình với Võ Chân Cửu thêm đậm đà.
Sau đây, xin giới thiệu với bạn văn bài của Võ Chân
Cửu viết về Nguyễn Đức Sơn trong tạp Theo Dấu Nhà Thơ
NXT
Tác phẩm Theo Dấu Nhà Thơ
Cao nguyên Bảo Lộc ở cuối dãy Trường Sơn với những tịnh cốc
nổi tiếng, hơn 40 năm về trước còn là nơi tụ hội nhiều nhà sáng tác. Như Nhất
Hạnh, Trần Thiện Thanh, Nguyễn Đức Sơn…
Do khá gần Sài Gòn nên người thích khoa thiên văn vẫn chọn
về đây khi có các sự kiện lớn. Rạng sáng ngày 14-12- 2013 khi ngắm mưa sao
băng, có người bỗng nhắc: kỳ diệu sao trên rừng ! “Sao Trên Rừng” còn đây không
?
Cộng
nghiệp thơ
Sao Trên Rừng là bút danh thời khởi nghiệp của Nguyễn Đức
Sơn (NĐS) ở các tạp chí Sáng Tạo, Văn Nghệ…từ
các năm 1959-1960. Khi xuất bản tập thơ đầu tay “Những Bài Tình Đầu” gồm
3 phân khúc Bọt Nước, Hoa Cô Độc (1965), rồi Lời Ru (1966), ông vẫn xưng bút
hiệu này. Sách phát hành, NĐS lập tức nổi tiếng như một thi sĩ kỳ dị- vì những
tuyên bố thành thật nhưng mang tính tự đại in trên bìa sách. Khi chuẩn bị cho
nhà xuất bản An Tiêm in tập thơ Đêm Nguyệt Động (1967) để làm sính lễ đi cưới
vợ, ông ký hẳn tên thật. Tên tuổi NĐS còn dữ dội với các tập truyện ngắn như
Cát Bụi Mệt Mỏi (1968), Cái Chuồng Khỉ (1969), Xóm Chuồng Ngựa (1971). Có nhà
điểm sách và nhiều độc giả cho ông là một “thiên tài độc ác”. Vì bằng mạch văn,
ông đã đẩy người đọc đến chỗ tận cùng
của trí tưởng. Cho nên, qua cuộc khảo sát về “Những cây bút hay nhất” do Tạp
chí văn nghệ Khởi Hành thực hiện năm 1971, NĐS đã lọt vào Top 5. Mặc dù vậy, về
sau nhắc đến ông, mọi người vẫn ấn tượng là một thi sĩ. Như từ thuở đầu tiên
ông đi vào sáng tác :
Một đêm sao ở trên rừng
Đua
nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
Hồn tôi cây cối liên hoan
Rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
Tuổi vàng giống mộng trời thơ
Lớn
lên tôi chết bên bờ hư không
(Tập “Bọt Nước-Những Bài Tình Đầu”)
Bài thơ đầu tiên đã giải thích vì sao ông chọn bút hiệu,
cũng “ngầm” tiên đoán số phận (cũng là định mệnh?) của cuộc đời mình. Nhưng nó
thành thật và hiền hậu quá; không như người đọc cảm nghĩ rằng càng dấn thân vào
chơi, NĐS càng trở nên kỳ dị (dù giọng điệu vẫn rất thành thật) khi cố tình đưa
lời miệt thị từ người có bằng cấp, trường đại học, và đến cả những người viết
lách cùng thời. Tiếng đồn rằng nếu ghét ai, ông còn viết thư gửi lời chê tới
tận nơi!
Nhà thi sĩ “quái dị” ấy đã tự nguyện bỏ trường đại học, và
ăn chay trường, tự kiếm sống bằng nghề dạy học.
Quê hương ở miền đầm phá ven biển Tri Thủy (Ninh Thuận), ông
sớm hít thở bầu không khí hoang vu. Có thời gian, ông sống ở vùng đồi núi cao
Đơn Dương trên đường từ Đà Lạt xuống Phan Rang. Nên khi đã lấy vợ, trốn lính,
ông đã lên miền B’lao (Bảo Lộc), là nơi cũng có khung cảnh hoang sơ, lại thuận
đường đi về Sài Gòn để “náu thân nơi nhà hoang”. Nguyễn Miên Thảo (NMT) là một trong số rất ít
bạn trẻ được ông chọn thơ để đăng trên
Tạp chí Mặt Đất (xuất bản bất định kỳ) do ông chủ trương năm 1966. NMT cho biết
ở lớp dạy tiếng Anh tại nhà trọ riêng, NĐS đã sẵn sàng đuổi học và trả tiền học
phí trở lại ngay cho bất cứ học sinh nào không thuộc bài đã học bữa trước! Thi
sĩ, thầy giáo NĐS muốn cuộc đời này luôn luôn phải tuyệt đối như ý mình chăng?
Cùng được chọn bài với NMT để có mặt trên “Tạp chí Mặt Đất”
là Thái Ngọc San (TNS). Khoảng năm
1970, tôi và tình cờ cùng có mặt trước khoảng sân NĐS đang
ở nhờ trong một khu nhà trong trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Mấy ngày trước, vợ
NĐS đã sinh đứa con trai đầu lòng, đặt tên là Thạch. Cả ba ngồi đốt lửa sưởi
ấm. Tôi và TNS cùng chiêm nghiệm niềm hạnh phúc của người thi sĩ có cuộc sống
lập dị mới được làm cha. Hạnh phúc lần lượt được ông thể hiện trong sáng tác
thơ, theo tháng năm cùng đứa trẻ lớn lên:
NHÌN CON TẬP LẬT
Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho đời sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây.
Vợ NĐS lần lượt đẻ năm một. Hạnh phúc của cha và con ngày
càng nhiều thêm. Như:
Theo cha đốt cỏ ngoài rừng
Nâng niu mẹ ẵm theo mừng không con
Có vài chiếc lá còn non
Gió
theo lửa khói tan giòn trên không
Nắng tà trải xuống mênh mông
Bước theo chân mẹ, cha bồng hư vô.
(Đốt Cỏ Ngoài
Rừng- Tập san Văn 1972)
Ngày đó, tôi chỉ “lên chơi rồi về” với Bảo Lộc và NĐS. Còn
TNS nương náu ở đây khá lâu (vì anh đang trốn lính), và tiếp xúc với NĐS cũng
nhiều. Đến khoảng 1972, TNS về Sài Gòn làm Thư ký Tòa soạn cho tạp chí Ý Thức-
tờ văn nghệ do các văn nghệ sĩ Miền Trung tự nhận có tinh thần “nhập cuộc” lập
ra. Sau đó không lâu, anh viết truyện ngắn Bầy Thú Hoang Dã miêu tả cảnh sống
của gia đình NĐS. Truyện này được đăng trên Văn. Trong truyện có ý nói là người
cha khá ích kỷ, luôn luôn bắt các con phải theo ý mình. TNS lúc này đã có cái
nhìn của một người làm văn nghệ vì xã hội. Sau 1975 một vài năm, bối cảnh và
nhân vật cũng như mạch văn của Bầy Thú Hoang Dã một lần nữa lại xuất hiện trong
một truyện ngắn mới của TNS trên Tạp chí Sông Hương (anh giữ công tác Thư ký
Tòa Soạn). Qua 2 truyện ngắn này, dư luận giới sáng tác râm ran nghi ngờ về
tính tình của NĐS.
Khát
vọng
Con người thật của nhà thơ có cuộc sống lập dị này ra sao ?
NMT từ Huế vài Sai Gòn làm văn nghệ vào năm 1965. Trong cảnh đói rách, NMT có
thời gian ngắn phải nương tựa nơi nhà trọ của NĐS ở Bình Dương. Cùng với Đại
Đức Thích Thanh Tuệ, Phạm Công Thiện, giáo sư Bửu Ý, anh là thành viên của họ nhà
trai trong lễ cưới vợ cho NĐS tại thị xã Thủ Dầu Một. Mới đây nhất, hồi cuối
năm 2012, NMT lên Bảo Lộc thăm lại NĐS lần thứ 2 kể từ sau biến cố 1975 (lần
thứ nhất vào năm 2011), NMT nửa đùa nửa thật bảo rằng sau bài tạp bút kể chuyện
đám cưới NĐS, anh sẽ kể chuyện NĐS là
“cơ sở cách mạng”. Nguyên do có một lần vào đêm giao thừa ở Bình Dương,
NĐS nấu một nồi xôi rất ngon. Nhưng đã qua phút giây trừ tịch mà ông vẫn chưa
chịu dọn ra ăn dù cả hai đang rất thèm. Bởi vì NĐS bảo “đợi nghe “lời chúc Tết” trên đài Hà Nội xong mới được
ăn” !
Các văn nghệ sĩ dưới bất kỳ triều đại nào cũng đều rất sợ bị
mang tiếng xu nịnh nhà cầm quyền. Nhưng thật bất ngờ là lần này, chính NĐS lại
giả bộ sốt sắng: “ông viết lẹ đi ! Để các cán bộ bỏ quy chụp rằng tôi đưa vợ
con lên miệt Phương Bối lánh đời là vì ngày xưa tôi sáng tác cho chế độ cũ;
chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa thực dân mới Mỹ ngụy” !
Ngày trước 1975 NĐS vẫn luôn miệng chửi đế quốc Mỹ. Những
vần thơ thuở ban đầu của NĐS nặng tình với bóng dáng quê hương. Có những câu dễ
khiến cho có người nghĩ rằng ông “thiên tả”. Như :
“…quê mình ai còn ai mất
đi rồi gươm súng mùa thu
khóc mãi từng đêm lưu lạc
nói ra thêm oán thêm thù
ngõ về làm sao ngài ngại
xe cộ có dễ dàng không
kháng chiến người đi chưa lại
lúa khô héo cả ruộng đồng…”
(bài Quê Hương-Những Bài Tình
Đầu”
Khi đến tuổi chính thức vào đời, như nhiều văn nghệ sĩ khác,
NĐS khá bị dồn nén trước sự hấp dẫn của những nàng thiếu nữ. Cảm xúc ấy mãnh
liệt chạy vào thơ ca, ra những lời lẽ rất thực:
…Năm mười sáu có lần anh ngó thấy
Em ở truồng ngoe nguẩy cuối vườn trăng
Hồn thảo dã trong anh vừa thức dậy
Suốt bầu trời ướt mượt cả lông măng…
Vốn là người thích sống với thiên nhiên, nên cảm xúc về thân
thể có khi lại hòa quyện với những ám ảnh về nỗi cô đơn trong cõi hoang vu. Như
trong bài “Đi Thăm Bạn Sắp Đẻ Ở Di Linh”:
Sắp đẻ ở Di Linh cây cối chào chị
Sắp đẻ ở hư không rừng và chị ôm nhau hát
Tôi giấu mặt đi ven hồ lạnh giá
Căn nhà gỗ phần mộ thanh xuân
Những ván thông dày đặc gỗ quan tài
Của tóc của chị của tình nhân
Của dương cầm bỏ phế đúng một năm
Sắp đẻ ở Di Linh cô đơn hùng dũng
Chị thu mình như một con mèo mun
Chị thu mình như một vũ nữ Ba Lan
Chị thu mình như một dĩa hát cũ
Oh, my tormented heart
Buổi chiều chết trên cây thánh giá
Hãy quên tôi như một mũi tên
Hãy quên tôi như một loài chim đêm
Anh đưa chị về đây để tự vận
Chị thổ huyết ba lần tôi chứng kiến
Khi rừng già thấp xuống thấp xuống
Buổi sáng chị tắm sương mù
Buổi chiều chị đốt cỏ để hong đời chị
Hiu hắt như đời tôi chị đứng lên
Hai mươi bảy năm tuột mất thanh xuân
Ôi nắng vàng dòng thác Gougah
Rừng và chị ôm nhau hát
Sẽ đẻ ra một đứa con
Rừng và chị ôm nhau chết.
Bài thơ rất hay này được NĐS viết ra khi anh còn rất trẻ,
bằng thể điệu gần với trào lưu sáng tác hiện đại. Khi ấy ông chưa gia đình riêng. Có lẽ cần lui lại một chút
thời gian để rõ thêm về dòng chảy của 20 năm văn học Miền Nam (1954-1975). Vào
khoảng những năm đầu thập kỷ 60, với sự chiếm lĩnh thị trường báo chí văn học
nghệ thuật, tạp chí Sáng Tạo với thế hệ các
nhà thơ cổ vũ cho thể thơ tự do gần như chiếm ưu thế. Ở một số “tuyên
ngôn”, có khi họ mạnh tay chê bai, xóa bỏ những thành tựu của các thể thơ
truyền thống. Nhưng với bài thơ có cách diễn đạt mới lạ như “Đi Thăm Bạn Sắp Đẻ
Ở Di Linh”, nhà thơ trẻ Sao trên Rừng vốn rành rẽ nghệ thuật sáng tác với các
thể thơ truyền thống, đã chứng minh rằng thể loại diện đạt không phải là sự
quyết định, ai cũng có thể “dụng công”. Để làm ra một bài thơ hay, cái quyết
định là phần hồn của người sáng tác. Tức mình vì thị trường sách báo bị chiếm
lĩnh bởi một số “phe nhóm”, NĐS luôn
khao khát có chỗ để lên tiếng. Nên ông đã tự lập ra một “Tạp chí xuất bản bất
định kỳ” mang tên Mặt Đất khi không có một đồng xu dính túi. Tên Mặt Đất còn
biểu thị mơ ước tự do giữa cõi bao la đất trời. Về sau, đến khi chơi thân với
lớp làm thơ trẻ hơn như TNS, NMT và tôi, ông vẫn còn biểu lộ mơ ước về tự do
trong thị trường sáng tác, xuất bản sách báo văn nghệ (Những khao khát này tôi
đã có dịp viết ra trong sách “22 tản Mạn-NXB Hội Nhà văn 2013, Công ty Phương Nam
Book phát hành).
Những
nghịch lý
Không phải đợi đến sau 1975 NĐS mới dắt cả vợ con bỏ lên
rừng sống cuộc đời “hái lượm” như nhiều người vẫn nghĩ. NĐS vốn chỉ biết sinh
sống bằng nghề dạy học và sáng tác. Mà cả hai, vào nhiều năm đầu sau chiến
tranh, đều phải ép vào khuôn khổ. Cuộc đời mỗi người đều phải gánh chịu mọi
diễn tiến khi lựa chọn một cách sống. NĐS vì thiên bẩm nghệ thuật thi ca, nên
ông rất quyết liệt. Ông phải chịu nhiều sự bất hạnh và tai tiếng của người đời.
NĐS có lúc đã tự “mắng” mình như “cây bông” trồng “chật chỗ”. Và khoảng năm
1988, ông phải chịu nỗi đau lớn khi một đứa con vì đói ăn trúng nấm độc mà
chết. Thể thơ “hai chữ” như dưới đây được ông sử dụng nhiều từ khi sáng tác ra
bài thơ dài “Du Sỹ Ca”-1973:
BÀI THƠ LÀM TRÊN ĐƯỜNG ĐƯA ĐÁM ĐƯÁ CON TRAI CHẾT ĐÓI ĐẾN NƠI NGÀN THU AN NGHỈ
Bao năm
Thui thủi
Mần cuỉ
Cuốc đất
Quên mất
Trời xanh
Ném nhanh
Sách vở
Người ở
Cùng đá
Vui quá
Nhà cây
Tới đây
Thiên đường
Hý trường
Đâu phải
Sao cãi
Lời cha
Bò ra
Gò mả.
Có lẽ nỗi đau ấy rồi cũng sẽ phôi phai. Vì từ những ngày đầu
làm thơ, ông đã sớm nhận ra rằng :
MỘT TÂM ẢO TƯỢNG
xe chênh bánh giữa luân hồi
ưu bi chở ngập bên trời bao la
ngày chưa sụp bóng ta bà
đã nghe chừng Hội Long Hoa đến rồi
một ngài Di Lặc xa xôi
một tâm ảo tượng tôi ngồi thâu đêm.
(Lời Ru-
Những Bài Tình Đầu)
Từ năm 1972, nhà thơ Viên Linh, thư ký tòa soạn tuần báo
văn nghệ Khởi Hành đã cho rằng :… “Theo
tôi thì ở Miền Nam Việt Nam hiện nay chỉ có vài thi sĩ: Bùi Giáng, Nguyễn Đức
Sơn, Trần Tuấn Kiệt…” (Kỳ báo
18-5-1972).
Theo quan niệm được nhiều người công nhận thì nhà thơ có thể
nhiều, còn thi sĩ là người có cuộc sống và làm thơ hòa lẫn. Nhận định ấy đến
nay vẫn đúng.
Và vẫn còn đó, “Sao Trên Rừng”.
VÕ CHÂN CỬU
(Theo Dấu Nhà Thơ)
No comments:
Post a Comment