Lê Uyên Phương. Đinh Cường vẽ. Hommage à LUP
Trên dòng văn học Việt Nam cận đại, ở đâu đó và bất chợt lúc nào đó, vẫn thấy thấp thoáng hình bóng Nguyễn Xuân Hoàng. Hoàng ra đi để lại một số tác phẩm bao trùm một thời kỳ đầy biến động không thể nào quên: Bụi Và Rác, Kẻ Tà Đạo, Người Đi Trên Mây… Ngoài ra còn phải kể đến Sổ Tay Nguyễn Xuân Hoàng. Sau Mai Thảo, Nguyễn Xuân Hoàng là người viết Sổ Tay đặc sắc nhất. Sổ Tay Nguyễn Xuân Hoàng, ngoài những trang về văn học, còn ghi chép về người, và việc chung quanh một con người dường như sinh ra chỉ để làm văn chương. Do đó, sổ tay của Hoàng được nhiều người ưa thích.
Trang blog hôm nay xin giới thiệu
bài sổ tay tháng 7. 1999 của Nguyễn Xuân Hoàng: Vĩnh Biệt Lê Uyên Phương.
“H. ơi, anh Phương đã bỏ Uyên đi rồi!” Giọng
nói nghẹn ngào, đầy nước mắt ở đầu giây điện thoại bên kia cách nơi tôi làm
việc bảy tiếng đồng hồ xe chạy là của nữ ca sĩ Lê Uyên. Chị báo cho biết tin
Lộc đã ra đi. Nhạc sĩ Lê Uyên Phương, tác giả Vũng Lầy Của Chúng Ta đã ra người thiên cổ đúng vào hai giờ chiều
thứ Ba 29 tháng Sáu vừa qua. Chưa tới cái tuổi sáu mươi. Sáu mươi của cuối thế
kỷ 20 không phải là tuổi già. Cái tuổi còn khả năng sáng tạo. Và Lê Uyên Phương
đang hoàn thành tác phẩm âm nhạc cho năm 2000: phổ nhạc những bài thơ của các
thi sĩ Việt Nam hiện đại.
Lần
sau cùng tôi gặp Phương hình như vào tháng Chín (hay tháng Mười?) 1998 tại một
quán cà phê trên đường Bolsa, góc đường Magnolia. Bởi vì tôi nhớ tháng Mười Một
tôi chia tay Bolsa. Hôm đó anh đi với Phạm Công Thiện vừa từ Úc qua. Phương hơi
nhỏ con, tóc dài, đôi mắt như cười, chiếc áo mặc ngoài màu sẫm và rộng so với
khổ người anh (có vẻ như màu nâu là màu Phương thích nhất, tôi nghĩ vậy vì lần
nào gặp anh tôi cũng tưởng chừng như mới ngày hôm qua, vì chiếc áo ấy không
thay đổi.) Và lần này gặp lại anh tôi vẫn nhìn thấy một khuôn mặt rạng rỡ yêu
đời. Anh có một nụ cười rất tươi và giọng nói ấm. Anh là người chỉ gặp một lần
thôi cũng sẽ giữ mãi một kỷ niệm đầm ấm tin cậy. Tôi quen anh thời còn là sinh
viên ở Đại học Dalat, đâu khoảng năm 1960. Đó là thời gian Lê Văn Lộc – với tên
Phương sau này – đang viết những tình khúc đầu tay của anh. Tôi chưa kịp thân
anh thì ra trường. Trở về Sài Gòn, tôi bị cuốn hút vào thế giới chữ nghĩa hơn
là thế giới âm thanh. Có vẻ như âm nhạc không tác động nhiều đến đời sống tình
cảm tôi, nếu có, phải nói chính những lời từ trong các ca khúc mới thực sự
chinh phục tôi. Khi nhạc sĩ Cung Tiến giới thiệu những tình khúc đầu tiên của
Lê Uyên & Phương tôi chợt nhận ra người bạn của những ngày ở Dalat lớn hơn
những gì tôi nghĩ và biết về anh trước đó rất nhiều.
Lê
Uyên & Phương, như Sony & Cher của âm nhạc Mỹ, quả thật đã chinh phục
cả một lớp tuổi chúng tôi. Âm nhạc của anh không chỉ là những tình khúc lấy cái
melody làm nền tảng, như một nhận xét của nhà báo Đỗ Ngọc Yến. Cái melody lãng
mạn trong những ca khúc của Phạm Duy hay cái melody siêu hình trừu tượng trong
tình ca Trịnh Công Sơn làm thành nét quyến rũ của hai bậc thầy về những bài
tình ca này quả có khác với tình khúc của Lê Uyên Phương. Cái làm thành sức
mạnh của âm nhạc Lê Uyên Phương chính là cái giai điệu cực kỳ khêu gợi dục
tính. Đó những lời than thở cuả một tình yêu “gặp hôm nay mà đã nhớ ngày mai”,
không phải âm nhạc của mộng dưới hoa, của cầm tay nhau không nói, khóc lóc mà
làm chi, anh về đi em đi. Âm nhạc của Lê Uyên Phương là tiếng kêu la chất ngất
của thịt da, của loài thú sống với bản năng, của giống đực ngợi ca giống cái,
của một sự thực không thể chối cãi về giới tính. Âm nhạc của Phương đã chinh
phục tôi. Nghe Lê Uyên và Phương hát, tôi khám phá ra sự dịu dàng trong văn
chương và âm nhạc thật ra chỉ làm vui lòng các cô tiểu thư giả vờ ngây thơ chứ
không phải là thứ âm nhạc mà lẽ ra chúng ta phải hát cho nhau nghe bằng tấm
lòng chân thật của tình yêu. Thứ tình yêu kiểu Lưu Trọng Lư đã qua rồi. Đã qua
rồi tình yêu Tự Lực Văn Đoàn, đã qua luôn thứ tình yêu kiểu chàng và nàng như
Vacances Romaines với Audrey Hepburn và Gregory Peck,… Âm nhạc của Lê Uyên
Phương rất gần với truyện của D.H. Lawrence. Nó là cái phần vô thức trong phân
tâm học của Sigmund Freud, là cái tận cùng kỳ thú trong Kiều của Nguyễn Du. Tôi
yêu âm nhạc của Lê Uyên Phương, tôi yêu tiếng hát của hai bạn, tiếng hát khêu
gợi làm sao, tiếng hát đi qua một trái tim nóng bỏng và đã thổi cái hơi nóng
tình yêu nồng nàn qua trái tim người nghe, bắt họ phải nhận ra rằng đó mới là
tình yêu đích thật.
Bao
giờ cũng vậy, mỗi khi nghe nhạc Lê Uyên Phương tôi đều nhìn thấy lại Dalat, một
Dalat đã làm tôi trở thành một người khác với con người thời niên thiếu của
tôi. Và tôi nhận ra mình ngu ngốc và rụt rè biết bao trước một Lê Uyên Phương
chân thật và dũng cảm.
Sống
cùng một bầu trời với anh tại nam California trong hơn mười ba năm nhưng tôi và
anh gặp nhau không nhiều. Tuy vậy mỗi lần gặp nhau chúng tôi đều nhận ra người
bạn ấy vẫn là người bạn của Dalat năm xưa: sương mù, con dốc, nhà ga, và cái
lạnh lẽo của những ngày mùa đông. Âm nhạc Lê Uyên Phương trở thành những lời
trối trăn của một cuộc tình trong thời chiến, không cơ may nổi loạn, chỉ làm
sao có thể sống sót cho qua những cơn thảm sát ngu xuẩn của chiến tranh. Chia
tay ngay trong giờ phút gặp gỡ của hiện tại này vì ngày mai chắc gì chúng ta
còn nhìn thấy nhau. Lê Uyên Phương hát cho một tuổi trẻ bất lực trước cuộc sống
không có ngày mai.
Nhưng
cái gì làm thành âm nhạc Lê Uyên Phương? Trong một bài tùy bút có tựa đề là Âm
Nhạc Từ Thiên Đường, trong tập Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles, Lê Uyên
Phương đã trả lời cho câu hỏi đó. Anh kể lại trong thời tuổi nhỏ đã có ít nhất
bốn lần âm nhạc đã đến với anh. Lần đầu tiên vào một buổi chiều của Dalat, lúc
anh mới khoảng tám, chín tuổi, cùng với người anh họ tên Bửu Ấn, ngồi trên một
ngọn đồi thấp gần ngôi trường tiểu học nằm giữa thị xã, trước mặt là con dốc
dẫn xuống hồ Xuân Hương, xa là ngọn tháp nhọn của Lycée Yersin … Cả hai ngồi đó
nhìn xuống con dốc, vừa bứt những ngọn cỏ xanh, vừa nói đủ chuyện trời trăng
mây nước. Và đột nhiên anh phát giác ra cả hai ngưng bặt từ lúc nào, và đang
lắng nghe trong không gian tràn ngập những tiếng đàn vĩ cầm: chồng lên nhau,
quấn vào nhau, đuổi theo nhau như một dòng suối, những tiếng đàn vĩ cầm đến từ
chiếc loa phóng thanh của hội chợ, một đoạn valse của Johann Strauss, rồi một
dàn kèn đồng trỗi lên làm lung linh mọi thứ trong không gian.” Lê Uyên Phương
viết “Ôi! Hạnh phúc biết bao, con người đã tạo nên được những âm thanh kỳ diệu
như thế.” Và từ đó anh bắt đầu nhận thức thế giới chung quanh qua cái “nghe” của
những âm thanh của buổi chiều hôm đó. Bài viết của anh cho tôi hình dung cái
cảnh tượng cậu bé Lê Văn Lộc mỗi buổi chiều thường ra cái mép của khoảng đất
trống trên đường Hàm Nghi, nhìn xuống thung lũng chỗ có rạp hát Ngọc Hiệp trên
đường Phan Đình Phùng để nghe vọng lại âm điệu của cái concerto en C majeur của
Mozart viết cho dương cầm được phát ra từ cái loa của rạp hát trước giờ chiếu
phim…” Lần thứ hai, âm nhạc đến với anh từ những bài thánh ca trong nhà thờ Tin
Lành, và anh làm quen với Mendelson, với Bach, với Schubert… Lần thứ ba, qua
đài phát thanh Dalat, chương trình âm nhạc Hoa Kỳ đã chinh phục anh với tiết
điệu của nhạc Jazz. Điều làm anh say mê là những tiết điệu nhịp nhàng của trái
tim con người bên cạnh những buông thả của hơi thở, của cảm xúc thể hiện qua
tiếng kèn đồng nóng bỏng.” Sự vắng bặt của lý trí trong nhạc Jazz đã mê hoặc
anh. Và như thế Duke Ellington. Bessie Smith, Louis Amstrong, Lil Hardin đã đến
với anh, mang cho anh bài học lớn lao về cái gọi là chất tươi của âm nhạc, là
máu của âm nhạc. Tôi nghĩ rằng người ta sẽ dễ thẩm thấu âm nhạc của Lê Uyên
Phương hơn nếu được đọc những dòng chữ đầy tính cách tự truyện của anh trong
tùy bút Âm Nhạc Từ Thiên Đường:
“Tôi
biết rằng tôi đã thuộc vào một nơi nào đó rất chênh vênh giữa lý trí của con
người, linh hồn của Thượng Đế và hơi thở của tình yêu.”
Lộc
đã ra đi. Lê Uyên Phương đã vẫy tay từ biệt chúng ta. Nhưng Tình Khúc Cho Em,
Vũng Lầy Của Chúng Ta, vẫn còn ở lại, sẽ còn ở lại. Âm nhạc của Lộc không phải
ai cũng hát được. Có những ca khúc gần như anh chỉ viết cho hai người hát. Và
hai người đó chính là Lê Uyên và Phương. “Hãy ngồi xuống đây. Hãy ngồi xuống
đây… ” Khi những âm thanh ấy cất lên chỉ còn lại cái khuôn mặt ngây dại của Lộc
cúi xuống cây đàn thùng và cái dáng đứng cao gầy của Lê Uyên nhìn xuống những
ngón tay anh. Hãy ngồi xuống đây! Hãy ngồi xuống đây! là những lời mời gọi của
một tình yêu không còn ngây thơ nữa. Trái cấm đã ăn, cánh tay đã ôm ấp và hai
thân xác đã nhập vào nhau.
Âm
nhạc của Lê Uyên Phương là giai điệu của chúng tôi. Anh ra đi mang theo phần
thứ hai của một tên tuổi đã đi vào trí nhớ mọi người. Sẽ khó mà tìm được một
Phương khác cho Lê Uyên trong khi trình bày những tình khúc của Lộc. Tôi nghĩ
như vậy.
Chỉ
trong một thời gian ngắn, rất ngắn, chúng tôi đã tiễn đưa Mai Thảo, rồi Nghiêu
Đề, rồi Nguyên Sa. Trước đó là Bùi Giáng ở quê nhà. Mới đây là Lê Đình Điểu ở
Quận Cam. Và bây giờ là Lê Uyên Phương.
Rồi
sau cùng mọi người cũng sẽ lần lượt rủ nhau ra đi thôi.
Nếu
trái đất không thể chịu đựng nổi sự già nua, với một quá khứ đầy thử thách thì
nó sẽ phải ấp ủ trong lòng một tuổi trẻ chưa kịp làm thành dĩ vãng. Nhưng điều
đó cũng chả hề gì. Tuổi trẻ bây giờ đang chuẩn bị cho một quá khứ sắp tới, bởi
vì tương lai đang có trong tay họ. Nghệ thuật của Trần Anh Hùng và Tony Bùi
đang trả lời cho những câu hỏi như thế.
Tháng
7. 1999
NXH
No comments:
Post a Comment