Ngô
Thế Vinh
Mặc Đỗ nhà văn, nhà báo, dịch giả là một
trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn
ở cái tuổi 58 còn tràn đầy sức sáng tạo nhưng anh đã chọn một cuộc sống quy ẩn,
chữ của Mai Thảo. Mặc Đỗ gần như dứt khoát không xuất hiện hay có tham dự nào
trong sinh hoạt cộng đồng văn chương ở hải ngoại -- [biển ngoài, chữ của Mặc
Đỗ], thái độ chọn lựa đó khiến tên tuổi anh hầu như rơi vào quên lãng.
TIỂU
SỬ MẶC ĐỖ
Tên Đỗ Quang Bình, sinh năm 1917 tại Hà
Nội trong một gia đình Nho học nhưng hấp thụ một nền văn hoá Tây phương. Học Luật
nhưng không hành nghề và chọn viết văn. Tên Mặc Đỗ được thân phụ đặt cho, có
nghĩa là người họ Đỗ trầm lặng. Khởi đầu viết khá sớm các truyện ngắn, kịch và
dịch sách đăng báo. Sau Hiệp định Geneve 1954 di cư vào Nam, cùng với Nghiêm
Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan thành lập nhóm Quan Điểm, xuất bản sách của các thành
viên trong nhóm. Về sinh hoạt báo chí, Mặc Đỗ đã cùng với các nhà văn Vũ Khắc
Khoan, Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà thơ Đinh Hùng, Như Phong Lê Văn Tiến, Mặc Thu
Lưu Đức Sinh sáng lập tờ nhật báo Tự Do đầu tiên ở Miền Nam. Sau 1975 Mặc Đỗ tỵ
nạn sang Mỹ.
Tác phẩm:
Bốn
Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958), Tân Truyện I (1967), Tân Truyện II (1973),
Trưa Trên Đảo San Hô (2011), Truyện Ngắn (2014), chỉ trừ Tân Truyện II (1973)
do Nxb Văn, sách Mặc Đỗ đều xuất bản với tên Nxb Quan Điểm.
Dịch thuật:
Lão
Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956); Con Người Hào Hoa /
F.Scott Fitzgerald (Quan Điểm 1956); Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966);
Người Vợ Cô Đơn / Francois Mauriac (Cảo Thơm 1966); Thời Nhỏ Trong Gia Đình
Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967); Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967); Anh
MÔN / Alain-Fournier (Cảo Thơm 1968); Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống
1973); Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973).
Trong Mộng
Một Đời, rất sớm từ thuở niên thiếu, Đỗ Quang Bình -- chưa có bút hiệu Mặc
Đỗ, đã nuôi mộng trở thành nhà văn, "Để
luyện văn phong, người trai chọn phương pháp đúng nhất là dịch văn ngoại ra
Việt văn. Kỹ thuật viết của những tác giả truyện đã dịch đã giúp khá nhiều cho
việc hoàn thiện những cấu trúc cho truyện dài dự định sẽ viết." Lựa
chọn của Mặc Đỗ có tác dụng
"đôi": một viên đá bắn 2 con chim/ kill two birds with one stone, anh tạo được một văn phong rất Mặc
Đỗ với ảnh hưởng nền văn học Tây phương, và thành quả tiếp theo là các tác phẩm
dịch thuật của Mặc Đỗ từ hai ngôn ngữ Pháp và Anh sang tiếng Việt rất chuẩn mực
và tài hoa, đã như một phần sự nghiệp thứ hai của anh bên cạnh sự nghiệp sáng
tác. Các sách dịch của anh được liên tục tái bản những năm về sau này.
Hình I. Trái: chân
dung Mặc Đỗ, ảnh Trần Cao Lĩnh,
Phải: bìa tiểu
thuyết Bốn Mươi của Mặc Đỗ,
Nxb Quan Điểm, Sài
Gòn 1957 [nguồn: internet]
HƠN
NỬA THẾ KỶ
Về tuổi tác Mặc Đỗ hơn tôi hơn một thế
hệ. Rất sớm đọc văn anh từ tiểu thuyết Bốn Mươi (1957), Siu Cô Nương (1959) tới
Tân Truyện (1967). [Hình I] Tôi có mối giao tình với anh từ thập niên 1960, cho
đến nay cũng đã hơn nửa thế kỷ. Cảm tưởng khi mới gặp, anh có phong cách của
một nhà văn.
Khi tôi chọn học Y khoa, làm báo Sinh Viên
Tình Thương và bắt đầu viết báo viết văn. Báo Tình Thương Y khoa có gửi biếu
anh. Năm 1962, một bản thảo truyện dài được viết xong, tôi gửi tới hai anh Mai
Xuyên Đỗ Thúc Vịnh Bóng Tre Xanh, và
Mặc Đỗ Bốn Mươi đọc trước. Từ hai anh
tôi đã nhận được những lời phê bình thẳng thắn.
Anh Đỗ Thúc Vịnh chú trọng tới sự trong
sáng và văn phạm của tiếng Việt cùng với vốn sống của người viết, anh rất quan
tâm tới thế hệ Những Người Đang Tới, cũng
là tên một tác phẩm khác của anh sau này. Nhà văn Đỗ Thúc Vịnh thì nay đã mất
[1920-1996], vậy mà cũng đã ngót 20 năm qua rồi.
Anh Mặc Đỗ có quan niệm, với người trẻ bắt
đầu viết văn nên tập viết truyện ngắn trước và kỹ thuật là phần quan trọng. Tác
phẩm đầu tay của tôi không phải là tập truyện ngắn mà là một cuốn tiểu thuyết.
Về chọn lựa bước khởi đầu này, tôi đã không theo được lời khuyên của anh. Mây
Bão xuất bản 1963 với nguyên vẹn nội dung với mẫu bìa của người bạn tấm cám hoạ
sĩ Nghiêu Đề.
Do gần nửa phần đời sau ở hải ngoại, từ 1975
cuộc sống nhà văn Mặc Đỗ gần như khép kín, thật khó để để vẽ một chân dung toàn
diện về anh. Chọn lựa và trích dẫn từ những bức thư anh gửi cho tôi, bớt đi
những phần quá riêng tư có lẽ giúp bạn đọc biết được nhiều hơn về một nhà văn
Mặc Đỗ quy ẩn.
Sang
thế kỷ 21 kỷ nguyên của computer, Mai Thảo thì vẫn cứ ẩn nhẫn viết tay kể cả
trên những phong thư hàng tháng gửi báo Văn tới từng độc giả dài hạn, riêng anh
Mặc Đỗ vẫn thuỷ chung với chiếc máy chữ xách tay thuở nào. Các thư anh gửi cho
tôi đều là thư đánh máy. Chỉ một bức thư hiếm hoi hoàn toàn viết tay của anh mà
tôi có được là do một tai nạn, chiếc máy chữ yêu quý thiết thân của nhà văn Mặc
Đỗ bị rơi và hư gẫy [Hình II]. Ít lâu sau đó, anh được một ông bạn ở Pháp tặng
cho một máy đánh chữ khác như món quà Giáng sinh, từ đó tôi lại nhận được những
lá thư đánh máy, chỉ với chữ ký là thủ bút của anh.
Cher
Vinh,
Tôi lọng cọng đánh rơi cái máy chữ yêu
quý, nhà thương Mỹ thích thay parts hơn là chữa, trong khi chờ một bàn tay Á
đông đành nắn nót viết, tập trung vào mấy ngón tay mệt óc quá, cho nên chỉ có
thể ngắn gọn, trang thư qua printer mất personality.
Cám ơn Vinh đã cho tôi thấy Vinh rõ hơn
nữa. Nhúm lửa trong tôi, có trước ngày tôi nghe lời bạn chôn bản thảo
"Đứng ngồi không yên" dưới ba lớp giấy gói và gác lên nóc tủ, nhúm
lửa đó tôi thấy thấp thoáng đôi chỗ qua những lời đối thoại của Vinh. Sau ngày
đó bút của tôi không tìm thấy AN nữa - chữ AN Phật dạy. Mừng thấy bút Vinh vẫn
AN.
Kết luận, thấy Vinh hơi lạc quan. Nhìn
thêm cái "nửa vơi", ngắm con người chúng sinh. Yêu nước cũng là một
thứ tham. Thân, [Mặc
Đỗ, Feb 5 1996]
Hình II. Trái: Mặc
Đỗ qua nét vẽ Tạ Tỵ [source: Gió O]
Phải: thủ bút Mặc
Đỗ, thư riêng gửi Ngô Thế Vinh, Feb 5,1996
TỪ
BỐN MƯƠI SIU CÔ NƯƠNG TỚI TÂN TRUYỆN
Bốn
Mươi (1957) là một tiểu thuyết, Mặc Đỗ viết về giai tầng trí thức tiểu tư
sản, ở cái tuổi không còn ngờ vực "tứ
thập nhi bất hoặc"; họ xuất thân từ những gia đình giàu có, đi du học
rồi tốt nghiệp, trở về nước và sống trong sự xa hoa của một xã hội thượng lưu.
Họ là những chính khách salon, theo cái nghĩa rất thời thượng, tự đồng hoá với
giai tầng sĩ phu trước kia, rất xa lạ với đời thường nhưng có ảnh hưởng trên
chính trường, họ tin vào vai trò lãnh đạo của giai cấp trí thức tiểu tư sản
trong cuộc chiến Quốc-cộng.
Siu
Cô Nương (1959) là tiểu thuyết thứ hai của Mặc Đỗ, viết về ba người đàn ông
và hai phụ nữ trong bối cảnh một Miền Bắc 1954, sau hiệp định Geneve khi một
Việt Nam sắp chia đôi. Ba người đàn ông ấy cũng thế hệ bốn mươi có lý tưởng,
tin vào vai trò lãnh đạo giai tầng trí thức tiểu tư sản với chủ trương xây dựng
một chế độ dân chủ kiểu Tây phương -- không chấp nhận cộng sản. Và họ giã từ Hà
Nội, di cư vào Miền Nam -- tỵTần, chữ Mặc Đỗ dùng sau này để chỉ những cuộc
lánh nạn cộng sản. Không gian sinh hoạt của các nhân vật trong Siu Cô Nương trải rộng hơn Bốn Mươi nhưng vẫn là một thứ xã hội
trên cao, với mấy mối tình ngang trái, tất cả chỉ cái cớ cho những tình huống
lịch sử mà viễn kiến của nhà văn là cái nhìn tiên tri. Cũng để nhận ra rằng:
cái thème chính của tác phẩm Bốn Mươi, Siu Cô Nương là cuộc đấu tranh
giai cấp, đưa tới cuộc nội chiến Nam Bắc kéo dài 20 năm sau đó. Với hậu quả là
cuộc tỵTần lần hai sau 1975 với hàng triệu người Việt Nam tung ra khắp thế
giới.
Hãy để chính Mặc Đỗ nói về tác phẩm Siu Cô
Nương của mình: "Tôi nhớ trong đoạn
kết Siu Cô Nương một nhân vật trên chuyến xe lửa ra đi ngó xuống những ruộng
đồng hai bên đường với những nông dân đang cặm cụi đã thắc mắc, mai ngày những
con người kia sẽ thành thù địch ư? Thắc mắc này trải dài trong 500 trang truyện
tiếp SCN." [Thư Mặc Đỗ, Sept 28, 1994]
Tân
Truyện I (Quan Điểm1967) và Tân
Truyện II (Văn 1973) là hai tập
truyện ngắn mà Mặc Đỗ gọi là tân truyện / nouvelle. Mỗi truyện như một
viên ngọc của một chuỗi ngọc thể hiện quan niệm dựng truyện ngắn với nhiều vận
dụng kỹ thuật của Mặc Đỗ và ngôn ngữ thì giàu hình ảnh nhưng cô đọng và trau
chuốt. Mỗi tân truyện của Mặc Đỗ đều để lại cho người đọc một ấn tượng rất đặc
biệt và khó quên.
Tưởng cũng nên ghi lại đây quan niệm viết
của Mặc Đỗ: "Từ khi bắt đầu viết tôi
đã chọn một đường lối nhất định, không bao giờ đem đời tư của riêng một ai,
quen hay không quen vào truyện. Tất cả đều là những nhân vật được cấu thành do
những chi tiết, hình ảnh, ngôn từ, đã ghi được qua bao nhiêu dịp quan sát, nhận
định; mỗi nhân vật là một hội tụ đúng chỗ của những tài liệu chọn lọc." [Phụ
lục: Truyện Không Thể Viết, Trưa Trên Đảo San Hô. Nxb Quan Điểm 2011]
Một số truyện ngắn trong Tân Truyện I
& II được Mặc Đỗ chọn cho in lại trong hai tập truyện Trưa Trên Đảo San Hô (2011): 13 truyện và tuyển tập Truyện Ngắn (2014); 30 truyện, gồm cả 13
truyện đã in trong tập Trưa Trên Đảo San Hô. Và không có một truyện nào được
ghi thời điểm sáng tác.
NHƯ
MỘT GIÃ TỪ
Nói rằng nhà văn Mặc Đỗ hoàn toàn không
viết gì khi ra hải ngoại thì không đúng. Anh có viết nhưng phải nói là rất ít.
Anh đã góp bài cho ấn bản đầu tiên báo Lửa
Việt với truyện Cái Áo Len Màu Rêu,
anh cũng góp bài cho Tạp Chí Văn Học Nghệ Thuật của Võ Phiến gồm các bài nhận
định văn học, truyện ngắn trong những số đầu tiên: số 1 (Kế hoạch chống đàn bà, truyện ngắn), số 2 (Làm văn học nghệ thuật trong hoàn cảnh tỵ nạn), số 4 (Văn Nghệ Việt Nam ở hải ngoại), số 7 (Con người Nga trong khuôn đúc cộng sản)
VHNT bộ cũ (1978) [http://tapchivanhoc.org]
Trong một thư riêng anh viết: "Một hai năm đầu khi mới đến đây tôi có
viết đôi chút để tiếp tay vài bạn cũ ra báo trong khi còn hiếm bút, sau này
làng ta trở nên phồn thịnh thì tôi yên tâm ngồi im, trừ một số nhỏ dịp phải trả
nợ nhiều số báo được tặng không (Văn, Thời Tập) thì có đóng góp một chút."
[Mặc Đỗ 25/08/1991]
Và một năm sau, trong lá thư đánh dấu 17
năm tỵTần, anh viết: "Từ hôm qua tôi
bắt đầu nhận được báo Xuân, sớm nhất là Văn [của nhà văn Mai Thảo, ghi chú của
người viết]. Vui thấy bạn còn nhớ cho báo đều đặn, đọc báo thì chẳng mấy vui.
Rất hiếm đọc những bài viết cho thấy cái công phu của người chau chuốt nghệ
thuật. Luôn luôn nổi rõ sự vội vàng sản xuất và vội vàng chấp nhận... Sự đời ở
biển ngoài đã biết rồi, thưởng thức hiếm có dịp, thành ra chẳng thấy vui."
[Mặc Đỗ 11/01/1992]
Trong sáng tác, Mặc Đỗ có quan niệm khá
nghiêm khắc, cả với chính anh. Anh luôn luôn nhắc tới kỹ thuật là quan trọng
nhất trong việc viết truyện.
Anh
kể lại: "đã mất khá nhiều bạn trẻ đã
cho tôi đọc bản thảo hay sách đã in vì tôi rất thẳng trong ý kiến đưa ra sau
khi đọc, tôi cũng than chuyện đó với một vài anh bạn già (không viết) thì được
trả lời ai bảo đụng tới nhược điểm của người ta! Tôi tiếp tục không nghe lời
khuyên đó vì tôi thấy cần phải sòng phẳng với ai có bụng tin tôi và chính tôi
nữa..." [Mặc Đỗ 5/02/1994].
Khi
viết về chính anh: "Riêng phần tôi,
sau từng trải và đánh giá mọi khả năng còn lại, tôi bây giờ rất sáng suốt mà bi
quan và tiêu cực. Thái độ này tôi giữ từ sau khi tự tay đốt cuốn truyện 'Bong
Bóng Bay' kết quả của cả chục năm hì hục." [Mặc Đỗ 01/11/1995] Cuộc
"phần thư" lần này trên đất Mỹ là do chính tay anh, chứ không phải do
kẻ bạo Tần của thế kỷ 21.
Rồi ở cái tuổi đã ngoài 90, anh quyết định
cho in tập truyện ngắn Trưa Trên Đảo San
Hô (2011), mà anh gọi là "tác
phẩm cuối đời" với một bìa lưng hoàn toàn trống trải chỉ với mấy câu
thơ thật thanh thoát [Hình III]:
Tự nhiên thành núi
băng
Lục địa lạnh một
ngày tách biệt
Lênh đênh vào có
không
Trưa Trên Đảo San
Hô
gồm 13 truyện ngắn, được sắp xếp theo ngược dòng thời gian: 7 truyện đầu được
viết thời tỵ nạn [tị-Tần chữ của Mặc Đỗ:
anh ví chế độ Cộng sản Việt Nam với nhà Tần 221-297 BC được coi là triều đại
tàn bạo nhất trong cổ sử Trung Hoa], 3 truyện tiếp theo được viết tại Sài
Gòn trước 1975; 3 truyện cuối được viết tại Hà Nội khoảng 1946-52. Mặc Đỗ viết:
"Ba truyện cuối trong toàn bộ cũng
là ba truyện đầu tiên tôi viết sau nhiều năm học, tập, và đến lúc tự xét thấy
có thể bắt đầu viết." Chỉ là một tập truyện ngắn nhưng đã ghi dấu ấn
ba chặng đường và cũng là ba không gian sáng tác của Mặc Đỗ: Hà Nội, Sài Gòn
Việt Nam và Hoa Kỳ.
Trong Lời
cuối, anh tâm sự: "Thấy tương
lai rất ngắn trước mặt (cũng như viễn tượng viết truyện ngắn/dài) tôi tự xuất
bản tập truyện này sau một thời gian vắng bóng trong làng văn ở ngoài nước, coi
như một giã từ."
HÌNH III. Trái: ký
hoạ chân dung Mặc Đỗ
Phải: bìa Trưa Trên
Đảo San Hô (2011) tác phẩm giã từ của Mặc Đỗ
Nhưng rồi tiếp theo đó, ba năm sau "Đứng ngồi không yên" -- tên
một tác phẩm của anh bị thất lạc, anh lại cho in thêm một tuyển tập Truyện Ngắn (2014), gồm các tân truyện
viết trước và sau 1975; cả hai tác phẩm tác giả tự xuất bản vẫn với tên Tủ Sách
Quan Điểm.
TÁC PHẨM THẤT LẠC
Nhà của gia đình
anh Mặc Đỗ ở Sài Gòn, không phải là ngôi biệt thự sang trọng như bối cảnh sinh
hoạt của tiểu thuyết Bốn Mươi, chỉ là
một căn phố lầu trên đường Trần Hưng Đạo nhưng rất ấm cúng bao năm, sau 30
tháng Tư, 1975 tôi có ghé thăm, trông thật lạnh lẽo, những chiếc ghế nệm bỏ
trống, bức tranh lập thể sơn dầu của Tạ Tỵ rất đẹp cũng không còn treo trên
tường nơi phòng khách, sau đó tôi mới được biết cả gia đình Mặc Đỗ đã âm thầm
rời Sài Gòn đêm ngày 29 tháng Tư, chỉ một ngày trước đó. Dĩ nhiên, cũng như mọi
người, anh chẳng mang được gì ngoài một chiếc túi nhỏ xách tay.
Trong một thư, sau này anh kể rõ hơn về số
phận tập bản thảo "Đứng ngồi không
yên" và sau đó đã thành tro than ra sao.
"Sau
khi hoàn tất cuốn "Đứng ngồi không yên" tôi có đưa cho ba bốn người
mà tôi kính trọng, [anh có kể tên nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh] vì nhiều lẽ đọc.
Tình cờ tất cả chung một nhận định: lắm động chạm đủ thứ! Nhận định đã khiến
tôi suy nghĩ và gói kín trọn vẹn bản thảo và tư liệu trong chiếc hộp, cột dây
và gắn si cẩn thận với mảnh giấy dán bên ngoài: Để dành cho thế hệ sau.
75 tôi đi rồi thì một thằng cháu chạy đến
lục lọi, nó lấy đi cùng với những thứ khác cái hộp tưởng quý lắm. Về nhà nó mở
ra rồi vừa tức vừa sợ nó vứt tất cả trong chiếc thùng sắt đổ dầu đốt cháy sạch.
Bao tâm tư đốt cháy khói khét lẹt! Mãi sau này tôi được kể lại chi tiết đã tức
cười nghĩ, Thế cũng đáng! Đáng đốt!
"Bên trên là nói chuyện với BS NTV,
Biệt Cách Dù. Đây là nói chuyện với nhà
văn NTV... Vào thu rồi, đang chuẩn bị nhận một flushot nữa và nhớ lại lũ trẻ
trung học Pháp thời trước/ sau TCII gọi những ông bà già là những PPH (Passera
Pas cet Hiver/ sẽ không qua khỏi mùa đông này -- ghi chú của
ngườiviết). Chúng tôi thì chắc
chưa!" [Mặc Đỗ, 28/09/1994]
Hình IV. Bìa tuyển
tập Truyện Ngắn (2014)
tác phẩm giã từ 2
của Mặc Đỗ
TÁC
PHẨM LỚN KHÔNG THỂ VIẾT
Sau Lời Cuối trong tập truyện Trưa Trên Đảo San Hô còn có thêm một Phụ
Lục Truyện Không Thể Viết, Mặc Đỗ tâm sự: "Với một người viết đáng buồn nhất khi thấy cần thành thật với
chính mình và quyết định không thể viết tác phẩm thèm viết... Theo dòng lịch sử
đất nước, tôi không thấy thời cơ nào có thể so sánh với gần tròn một thế kỷ
qua, với ba biến cố đặc biệt nối đuôi nhau, cùng hết sức giàu sinh động trong muôn
vẻ chi tiết. Cảnh khổ ly tán được cụ thể hoá bằng một vụ phân ly giữa hai miền
Nam Bắc. Kinh nghiệm độc lập người Việt ở hai miền cùng thâu góp, chất ngất,
trong nước mắt. Biến cố thứ hai hào hùng thay! Nhưng đã hiện hình chẳng bao lâu
sau, và kéo dài tới nay đã hơn ba mươi năm. [những dòng chữ này có lẽ Mặc Đỗ
viết khoảng 2005, ghi chú của người viết] Hai biến cố đó xô tới biến cố lạ
lùng, ngót hai triệu người Việt Nam thình lình tìm được tới, và bắt đầu mọc rễ
trên những bến bờ lạ. Khơi lên từ cảnh đời một cô gái lai Mỹ, thiên truyện mọc
lên trong đầu tôi khả dĩ ôm trọn ba biến cố vừa kể... Trong nhiều tháng sau tôi
mê mải với đề tài Truyện, ra công sắp xếp cái sườn để gài lên những tình
tiết... Ai sẽ viết? Cái vốn quan sát nhận định, rung cảm, chứa sẵn trong đầu,
tôi có thể dùng cho phần đầu Truyện. Nhưng từ đêm 29 tháng Tư 1975 tôi đâu còn
ở trong nước để quan sát, nhận định, rung cảm nữa... Tôi đã không thể viết...
Tôi mong cho tôi, cũng mong cho đông đảo độc giả Việt Nam vì hiện chưa có một
tác phẩm nào ghi lại liên tục giai đoạn lịch sử độc đáo vừa bi hùng vừa đáng
cười ra nước mắt...Kho tàng đó đang chờ những người Việt Nam dám lãnh vinh dự
và trách nhiệm là nhà văn." [TTĐSH, lược dẫn Phụ Lục tr.219-230]
Đó là nỗi buồn và cũng là cái giá rất đắt
phải trả của một nhà văn lưu đầy. Không thể viết nhưng Mộng-ngày bao năm trước
về một tác phẩm lớn vẫn cứ vất vưởng như một ám ảnh khôn nguôi đối với nhà văn
Mặc Đỗ.
Vào đời tràn háo
hức
Tiếp theo liền dằng
dặc ưu tư
Nhắm mắt còn ưu tư
TÌM
CHỮ AN TRONG ĐẠO PHẬT
"Ngay
từ thời đọc 'Cạn Dòng' tôi đã buồn thấm thía trước viễn tượng sớm muộn sẽ thành
sự thật và nông nỗi bất khả kháng trong thời thế toàn cầu hiện nay. Vinh và các
bạn đang theo đuổi một cố gắng đúng, rất nhiều người khác tại các nước khác
cũng theo đuổi những cố gắng khác với chung một mục đích cứu vãn đời sống trên
mặt đất, khổ một nỗi loài người bây giờ quá ham tranh chấp đạp lên mọi lẽ phải.
Sinh thời nhà tôi chúng tôi thường nhìn nhau, thu gọn mối sầu mênh mông vào một
vòng nhỏ với cảm nghĩ: Tội nghiệp lũ con, cháu, chắt... sinh sau! Cũng như tôi,
bất cứ độc giả nào đọc 'Nghẽn Mạch' không thể không xúc động trước những sự
thật đã hiển hiện sớm hơn cả viễn tượng lo lắng." [Mặc Đỗ 06/04/2007]
Dưới bức thư đánh máy, anh Mặc Đỗ có thêm
một dòng tái bút viết tay: "Vinh có
nghĩ tới trận chiến lớn sẽ có thể xảy ra và Việt Nam sẽ hứng chịu?" Với
một Biển Đông hiện đang ầm ầm dậy sóng hình như sắp chứng nghiệm cho lời tiên
tri của anh.
Mặc Đỗ luôn luôn nói tới chữ AN [viết hoa]
trong đạo Phật. Cũng vẫn chữ "AN" trong một thư từ Austin, anh viết:
"Cher Vinh, Năm nay Xuân từ Đồng Bằng
Cửu Long không đem 'AN' đến cho tôi. Đọc 'Tìm về' trước Tết, cái arrière-goût
dai dẳng từ trước cho đến sau Tết, không dứt. Tôi còn nhớ
hồi nhỏ ở nhà khi có đám giỗ lớn, họp đông họ hàng, hay có một vài vị lớn tuổi,
không hiểu dòng dõi với tiền nhân như thế nào nhưng đã được nghe truyền lại, kể
thành tích chiến công Nam Tiến với những chi tiết... Mỗi lần Me tôi thường khóc
và nói rằng, oán thù bao giờ rũ cho sạch được! Tết năm nay tôi cứ bị ám ảnh bởi
nhận định bi thương đó... Bây giờ sắp tới thời không còn giấu bụi dưới thảm,
càng buồn hơn. Nén buồn xuống chỉ còn mơ ước: Con người VN hồi tỉnh và biết nắm
tay nhau cùng đối phó, và đối thoại." [Mặc Đỗ, 18/02/2000]
* [Tìm
Về là tên một chương sách Tìm Về
Phương Đông, trong Cửu Long Cạn Dòng
Biển Đông Dậy Sóng, Nxb Văn Nghệ 2000]
Ba nhà văn chủ lực trong nhóm Quan Điểm
mà tôi được biết, phần cuối cuộc đời đều có khuynh hướng tìm về đạo Phật. Tuyết
ngưu Vũ Khắc Khoan của Thành Cát Tư Hãn
nơi xứ vạn hồ miệt mài với Đọc Kinh và nghe Kinh, để rồi "lâng lâng trong mù sương nơi ngưỡng cửa
pháp hội, một mình." [1917-1986], Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng của Cách Mạng và Hành Động [1920-2000] sau
1975 tịnh tu, mang nặng suy tư từ những trang Kinh Lăng Nghiêm, viết sách Phật và giảng dạy Phật Pháp. Vũ Khắc Khoan và
Nghiêm Xuân Hồng thì đã lần lượt ra đi trong sự thanh thoát và cả lặng lẽ tiếng
kinh kệ. Mặc Đỗ thì sống quy ẩn từ bao năm như một hành giả không ngừng đi tìm
một chữ AN trong đạo Phật.
XƯỚNG
HOẠ VÀ KHAI BÚT
"Hôm cuối năm, ông bạn già, anh Đoàn
Thêm [nhóm Bách Khoa, tác giả Những Ngày Tháng Không Quên, ghi chú của người
viết] làm bài thơ 'Than già' gửi cho bạn già đọc. Bài thơ có năm vần
rồi-trôi-nòi-thôi-hồi. Một bạn già khác hoạ lại, rồi lác đác nhiều bạn già khác
cũng hoạ. Thấy anh em vui tôi cũng nhẩy vô, tuy trong đời đây là lần thứ hai
tôi thử trò chơi nghĩ rằng chỉ dành cho các bậc túc nho. Nhảy vô thấy cũng thú
giống như thú chơi mots croisés chẳng hạn... Tôi chép hai bài tặng Vinh đọc
chơi làm quà cuối năm. Chơi trò xướng hoạ mới thấy cái thú vận dụng tiếng Việt,
một vần có thể xoay chuyển qua nhiều nghĩa. Càng thú nữa là xướng hoạ không để
đăng báo, thành danh. [Mặc Đỗ 11/01/1992]
DƯ SINH
Lời đẹp nghìn xưa
đã dạy rồi
Đời người lãng đãng
bóng mâytrôi
Ý tham đeo đẳng
không đành thoát
Muôn kiếp sinh sôi
vẫn một nòi
Nợ nước tình nhà và
sự nghiệp
Tuyết sương rồi
cũng thế mà thôi
Sống thừa mới thấy
thừa chi lắm
Lão giả chen nhau
kiếm chỗ ngồi
Mặc Đỗ
NĂM MỚI
Đã đến thời thôi
đếm tuổi rồi
Ngồi bên bờ cỏ để
buông trôi
Cúi đầu cố học ngu
không hết
Nghển cổ tầm sư lạc
mất nòi
Tính sổ cuộc đời
nhiều mực đỏ
Bài thua úp xuống
xoá đi thôi
Cười xem thời vận
mong Bùi Tín
Áo gấm về quê chẳng
mấy hồi
Mặc Đỗ
Phải nói là ngạc nhiên đến thú vị khi thấy
một người theo Tây học như Mặc Đỗ, mới bước vào trường thơ xướng hoạ mà về vần
và niêm luật, nhất là bài thứ hai Dư Sinh
anh đã đạt được tới mức độ gần hoàn chỉnh.
Hình V. Mặc Đỗ
xướng hoạ
và khai bút đầu
Xuân
"Sáng mùng một tết Tây 2003, tỉnh dậy
nằm suy ngẫm chợt nhớ tới những người Việt Nam lưu lạc khắp nơi", anh Mặc
Đỗ gửi tặng tôi bài thơ mới làm.
KHAI BÚT
[Giao thừa lẻ hai
vào lẻ ba]
Những khớp xương
nghe đời phôi pha
Nhưng như xưa tấm
lòng vẫn ấm
Tiễn đưa chào đón
chén trà đậm
Cuộc tình trời đất
dài thăm thẳm
Hai bàn tay khép
mời nguyện ngắm
Theo nén nhang sợi
khói bay cao
Những mối yêu
nguyên vẹn thuở nào
Một mình bàu bạn
không trăng sao
Tư bề không tiếng
sóng dạt dào
Thời gian ngồi lại
không chờ đợi
Buồn vui không cũ
cũng không mới
Mặc Đỗ
CHUẨN
BỊ MỘT CHUYẾN ĐI THANH THẢN
Sau ngày Chị Mặc Đỗ mất, là một chấn
thương lớn đối với anh, cả về tinh thần và sức khoẻ. Mối quan tâm lớn của anh
là chuẩn bị cho riêng mình một chuyến đi thật nhẹ nhàng và thanh thản. Anh kể: "Tôi có một ông bạn Pháp 14 năm nuôi vợ
ở tình trạng living death."
Năm 2006, anh đã tự tay viết một di chúc về
sức khoẻ / Advance Medical Directives of
Binh DoQuang, anh chia xẻ điều đó với tôi như một witness/ nhân chứng ở xa,
do tình thân và cũng có thể do nghề nghiệp y khoa của tôi. "Tôi viết directive bằng Pháp văn cho thật đúng ý nghĩ trước khi
dịch ta Anh văn hợp với legalese."
Nhà văn Mặc Đỗ 95
tuổi, hình chụp tháng 10/2012
[nguồn: hình do anh
Trần Huy Bích cung cấp]
Anh viết về sự hiểu biết của anh đối với
căn bệnh Alzheimer cùng những hậu quả do tiến trình căn bệnh trên người bệnh,
gia đình và xã hội và với tất cả sáng suốt - như "một lão giả" chữ của Mặc Đỗ, anh đã thanh thản viết
xuống giấy sự chọn lựa của anh:
"Si jamais j'attraperais ce mal
Alzheimer, situation bien établie par mon docteur et d'autres spécialistes
consultés, je demande que toute nourriture solide et liquide soit interrompue,
nourriture ou d'autre substance donnée par quel moyen que ce soit.
J'implore tous les membres de ma famille,
toutes les autorités judiciaires, administratives, religieuses, politiques, et
autres, à ne pas s'opposer à ma décision et me laisser périr comme un vieil
arbre paisiblement."
Chọn lựa của anh có thể là một tấm gương
cho nhiều người, biết chấp nhận chu kỳ sinh diệt như lẽ tuần hoàn của trời đất,
nó cũng cứu vãn cho một nền y tế Mỹ đang bị phá sản/ bankrupt chỉ vì vẫn muốn duy trì lâu dài những cuộc sống thực vật/ vegetative state hay living death, vẫn chữ của anh Mặc Đỗ.
Năm 2015, đã chín năm sau ngày anh viết di
chúc sức khoẻ ấy, sáng nay từ nhà thương nơi tôi làm việc, rất vui mới được nói
chuyện điện thoại khá lâu với anh [14/06/2015], vẫn là một nhà văn Mặc Đỗ giọng
nói còn sang sảng và tinh thần thì rất ư là minh mẫn. Phải chăng một phần do gene, phần kia do một cuộc sống kỷ luật
từ thời còn rất trẻ, sáng dậy sớm tập thể dục tắm nước lạnh và sống điều độ
suốt những năm sau đó, có thời ở Sài Gòn anh đã chọn chế độ dinh dưỡng gạo lức
muối mè, có lẽ vậy mà anh dễ dàng sống tới trăm tuổi, vẫn tự sinh hoạt độc lập
với nguyên vẹn phẩm chất của cuộc sống. Một ngày nào đó mong còn xa, sự ra đi
của anh theo quan điểm y khoa sẽ được coi như một cái chết tự nhiên/ natural death, như một cây cổ thụ khô và
tự héo dần - vẫn chữ của nhà văn Mặc Đỗ.
NGÔ
THẾ VINH
Long
Beach, 20/ 06/ 2015
No comments:
Post a Comment