Bài viết của Ngô Thế Vinh
Hủy hoại
từ những đập dòng Chính Mekong…
Với chiều
dài 4,800 km, Mekong là con sông lớn thứ ba Châu Á và là thứ 11 của thế giới.
Sự phong phú của hệ sinh thái sông Mekong chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon.
Tiềm năng
thuỷ điện của sông Mekong khoảng 60,000 MW: Lưu vực Trên 28,930 MW là nửa khúc
sông nằm trong lãnh thổ Trung Quốc; và Lưu vực Dưới 30,000 MW là khúc sông
Mekong hạ lưu chảy qua 5 quốc gia Miến Điện, Lào, Thái Lan, Cam Bốt và Việt
Nam. Chuỗi 12 con đập dòng chính hạ lưu chủ yếu nằm trong hai nước Lào và Cam
Bốt.
Hiện nay Trung Quốc đang xây con đập thứ 8: đập Miêu
Vĩ / Miaowei sẽ hoàn tất phát điện năm 2016 (2), và TQ cũng tiếp tục xây thêm
những con đập khác trên dòng chính con sông Lan Thương / Lancang Jiang – tên TQ
của sông Mekong.
Điểm danh, ngược dòng thời gian 6 con đập bậc thềm
Vân Nam / Mekong Cascades đã hoàn tất và đang nhộn nhịp hoạt động phát điện,
góp phần phát triển nhanh chóng cho toàn vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc:
Đập Nuozhadu 5,850 MW lớn nhất
hoàn tất 2014 [nguồn: International River]
1/ Nọa Trác
Độ (Nuozhadu) 5,850 MW lớn nhất, là con đập dòng chính thứ sáu, khởi công 2006,
hoàn tất 2014 [Hình Ia]
2/ Tiểu
Loan (Xiaowan) 4,200 MW lớn thứ hai, là dòng chính thứ năm, khởi công 2001,
hoàn tất 2010
3/ Công
Quả Kiều (Gongguoqiao) 900 MW là con đập dòng chính thứ tư, khởi công 2008,
hoàn tất 2011
4/ Cảnh
Hồng (Jinghong) 1,500 MW là con đập dòng chính thứ ba, khởi công 2003, hoàn tất
2009
5/ Đại
Chiếu Sơn (Dachaosan) 1,350 MW con đập dòng chính thứ hai, khởi công 1996, hoàn
tất 2003
6/ Mạn
Loan (Manwan) 1,500 MW con đập dòng chính đầu tiên trên sông Mekong, khởi công
1984, hoàn tất 1993 [Hình Ib]
Đập Manwan 1,500 MW con đập dòng chính
Mekong đầu tiên hoàn tất 1993 [nguồn: Ngô Thế Vinh]
Sau khi
hoàn tất hai con đập lớn nhất: con khủng long Nọa Trác Độ và con Đập Mẹ Tiểu
Loan, về tổng thể Bắc Kinh hầu như đã hoàn thành kế hoạch thủy điện của họ trên
sông Lan Thương và theo Fred Pearce, Đại học Yale thì con sông Mekong đã trở
thành tháp nước / water tower và là nhà máy điện / electrical powerhouse của
Trung Quốc(6).
Philip Hirsch, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Sông
Mekong thuộc Đại học Sydney nhận định: “Hai con đập khổng lồ Nọa Trác Độ và
Tiểu Loan sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận
Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam”.
Với 6 con
đập dòng chính hoàn tất trên trên khúc sông Mekong thượng lưu, Trung Quốc đã
đạt được công suất 15,150 MW – nghĩa là hơn một nửa toàn công suất tiềm năng
thuỷ điện của con sông Lan Thương. Với 8 dự án đập dòng chính còn lại, và có
thể sẽ còn thêm nhiều dự án mới nữa, và Trung Quốc cũng sẽ dễ dàng dứt điểm sớm
trong vòng mấy thập niên đầu Thế kỷ 21.
… Tới
mối hiểm nguy Mạng lưới đập phụ lưu
Nam Ngum
150 MW có thể được xem là con đập thủy điện phụ lưu đầu tiên của Lào và được
hoàn tất rất sớm 1971, giữa giông bão của cuộc chiến tranh Việt Nam. Nam Ngum
là niềm hãnh diện của tiến bộ và phát triển của người dân Lào. Ở một chừng mực
nào đó, với từng bước phát triển hài hòa, cùng lúc quan tâm tới bảo vệ sinh
cảnh và môi trường, thì không thể phủ nhận được là đập Nam Ngum đã đem lại ánh
sáng cuộc sống văn minh tới người dân Lào [Hình IIa]. Với những người Lào có
học hiểu biết, họ thấy được tiềm năng thiên nhiên phong phú của đất nước Lào,
giới lãnh đạo thế hệ mới ở Lào nuôi tham vọng khai thác tiềm năng thuỷ điện con
sông Mekong để trở thành “xứ Kuwait thuỷ điện của Đông Nam Á”.
Nam Ngum, con đập phụ lưu đầu tiên của Lào,
biểu ngữ giăng ngang con đập đánh dấu 25 năm thống
nhất nước Lào
[nguồn: photo by Ngô Thế Vinh 2000]
Trước khi
có kế hoạch phục hoạt dự án chuỗi 12 con đập dòng Chính hạ lưu, Lào, Việt Nam,
Thái Lan đã và đang liên tục xây những đập thuỷ điện trên các nhánh phụ lưu
sông Mekong. Thái Lan với đập Pak Mun 136 MW (1994) trên sông Mun, Việt Nam với
con đập Yali 720 MW (1996) cùng với các con đập phụ lưu khác trên sông Sesan và
Seprok trên cao nguyên Trung phần, Lào thì từ sau con đập Nam Ngum (1971), đã
xây thêm thêm nhiều con đập phụ lưu khác như: Nam Theun-Hinboun 210 MW Trung
Lào, Nam Leuk 60 MW trong vùng Bảo tồn Sinh thái tỉnh Vạn Tượng, Nam Theun 2
lớn nhất 900 MW Trung Lào, Houay Ho 150 MW giữa hai tỉnh Champassak và Attapeu
Nam Lào, Xe Pian-Xe Namnoy 438 MW trên cao nguyên Bolovens Đông Nam Lào, Xe
Kaman1 468 MW tỉnh Attapeu cực Đông Nam Lào.
Theo Aviva Imhof, nguyên Giám đốc truyền thông Mạng
lưới Sông ngòi Quốc tế / IRN, trong tài liệu chuyên đề: “Power Struggle: The
Impacts of Hydro-Development in Laos” đã rất sớm đề cập tới những tổn hại môi
sinh “bất cập” từ các con đập phụ lưu ở Lào(8).
Cùng với các con đập dòng chính Mekong, mạng lưới
những con đập phụ lưu cũng có ảnh hưởng tích luỹ đáng kể đối với tình trạng
dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá lưu vực sông Mekong.
Nghiêm
trọng hơn cả là con đập phụ lưu Hạ Sesan 2 / Lower Sesan 2 / LSS2 (của Cam Bốt)
nằm dưới điểm hợp lưu hai con sông Sesan và Srepok. 3 S là tên hệ thống 3 con
sông phụ lưu lớn sông Mekong: Sekong, Sesan, Seprok cùng đổ vào dòng chính sông
Mekong nơi tỉnh Stung Treng, Đông Bắc Cam Bốt [Hình IIIa].
Mạng Lưới 3S, ba sông phụ lưu: Sekong, Sesan, Srepok
cùng hội tụ đổ vào dòng chính sông Mekong [nguồn: Decarboni]
Đập Hạ
Sesan 2 với chiều cao 75 m, diện tích hồ chứa 340 km2 (gần bằng nửa diện tích
đảo quốc Singapore), công suất 400 MW, dự trù nguồn điện sẽ được xuất cảng sang
Việt Nam.
Theo các
chuyên gia môi sinh, con đập phụ lưu sẽ gây ra những ảnh hưởng môi sinh rất tai
hại nếu đặt vào “vị trí trọng điểm” của con sông. Guy Ziv, tác giả chính của
cuộc khảo cứu 2012 PNAS / Proceedings of the National Academy of Sciences, cùng
các đồng nghiệp thuộc Đại học Princeton nhận định: có một khác biệt lớn về vị trí
những con đập ấy với cái giá môi sinh / ecological cost phải trả. Điển hình là
con đập Hạ Sesan 2 được xem là tệ hại nhất: nó đe doạ sự sinh tồn của hơn 50
chủng loại cá và cũng làm giảm 9.3 phần trăm tổng sản lượng cá trong lưu vực
[khoảng 200,000 tấn cá /năm]. Ảnh hưởng tác hại đó không chỉ trên lãnh thổ Cam
Bốt mà lên xa tới Lào, Thái Lan và xuống tới ĐBSCL, được coi như vựa lúa của
Việt Nam(7).
Câu hỏi
được đặt ra là tại sao chính quyền Việt Nam không thể không biết nhưng họ vẫn
coi nhẹ những tổn thất môi sinh và xã hội như thế. Câu trả lời rõ ràng: họ là
giới lãnh đạo có toàn quyền quyết định, được các nhóm lợi ích chia chác cho
hưởng lợi, trong khi người dân không được phép có tiếng nói và họ phải gánh
chịu mọi tổn thất và cả di luỵ cho các thế hệ tương lai.
Câu hỏi
tiếp theo là liệu có thể vừa khai thác xây đập thuỷ điện trên sông Mekong vừa
bảo vệ được tiềm năng phong phú của dòng sông?
Câu trả
lời là có thể: nếu thận trọng triển khai một số những con đập trên những địa
điểm khác, vẫn có thể sản xuất nguồn điện lớn mà giảm thiểu được những tổn hại
trên nguồn cá(7).
Điện Lực
Việt Nam / EVN / Electricity of Vietnam đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu
MK, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt / Cambodia’s Royal Group và Công
ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc / Hydrolangcang International Energy Co.,
Ltd. Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, nay cánh
tay TQ đã nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn.
Do hậu
quả tác hại quá lớn của con đập Hạ Sesan 2 trên môi trường, kinh tế và xã hội
trong toàn lưu vực, Mạng lưới Sông ngòi Quốc tế / IRN đã kêu gọi chính phủ Cam
Bốt huỷ bỏ dự án này nhưng không được đáp ứng.
Năm 2014,
các tổ chức tài trợ quốc tế bao gồm Úc, Nhật, Hoa Kỳ và Phần Lan cùng yêu cầu
Cam Bốt đệ trình dự án Hạ Sesan 2 tới Uỷ hội sông Mekong / MRC cho tiến trình
tham khảo trước / prior consultation process nhưng cũng không được đáp ứng.
EVN chung sức xây đập thuỷ điện Hạ Sesan 2
như hành động cầm súng bắn vào chân mình [nguồn:
Decarboni]
Cư dân Cam
Bốt sống trong vùng xây đập cùng với nhóm Bảo vệ 3 Dòng Sông / 3SPN / Rivers
Protection Network, đã viết thư lên Quốc hội Cam Bốt phản đối con đập, và họ
cũng kéo nhau lên tới thủ đô Nam Vang biểu tình tạo áp lực nhưng đã không đưa
tới một kết quả nào.
Riêng Việt
Nam, các nhóm NGO của trí thức trong nước dù cố gắng tới đâu nhưng tổ chức của
họ vẫn chưa thể sinh hoạt độc lập và chưa được nhà nước chấp nhận tư cách pháp
nhân của một tổ chức phi chính phủ.
Trước
những tác hại hiển nhiên của con đập Hạ Sesan 2 trên ĐBSCL: biến đổi dòng chảy,
mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá… không những đã không có tiếng nói ngăn
chặn phản đối mà còn góp vốn cho Cam Bốt thực hiện dự án tai hại ấy, có thể ví
như một hành động cầm súng tự bắn vào chân mình / shoot oneself in the foot
[Hình IIIb].
Trên bàn cờ sông Mekong
Bran
Ritcher, chuyên gia có kinh nghiệm hơn 25 năm về nước của Viện Bảo tồn Thiên
nhiên / Nature Conservancy, cố vấn về nước cho Liên Hiệp Quốc đồng thời là Chủ
tịch Hội Nước Bền Vững / Sustainable Waters và giảng dạy tại Đại học Virginia
đã phát biểu: “Để khai thác phát triển nguồn nước tốt, người ta phải thực hiện
trên tầm nhìn lưu vực / basin scale”. Bran Ritcher tiếp: “Theo một nghĩa nào
đó, người ta phải nhìn Mekong như một bàn cờ / game board, chọn địa điểm nào
thì nên đặt một con đập, nơi nào không và có như vậy thì mới duy trì được chức
năng môi sinh / ecological functionning của toàn thể lưu vực sông Mekong. Thực
hiện điều ấy thì vô cùng khó khăn trên sông Mekong”(2).
Công trường xây đập thuỷ điện Hạ Sesan 2
Stung Treng Đông Bắc Cam Bốt [nguồn: Phnom Penh
Post, 12/2014]
Một kế
hoạch như vậy đòi hỏi sự điều hợp hỗ tương giữa các quốc gia Mekong, các nhà
đầu tư xây đập, và sự điều hợp ấy thì hoàn toàn thiếu sót.
Ảnh hưởng từ những con đập Mekong
Với 26
con đập dòng chính: 14 con đập Vân Nam TQ và 12 con đập hạ lưu Lào Cam bốt,
cùng với mạng lưới chằng chịt những con đập phụ lưu, tất cả đã và đang gây nên
những huỷ hoại tích luỹ trong toàn lưu vực sông Mekong với hậu quả không thể
đảo nghịch / irreversible và vì tích luỹ nên tác động tiêu cực giáng xuống nặng
nề nhất vẫn là Đồng Bằng Sông Cửu Long nơi cuối nguồn.
Sông
Mekong và các phụ lưu có thể ví như một hệ tuần hoàn, bị phình mạch do những hồ
chứa / reservoirs và nghẽn mạch do những con đập và hậu quả dây chuyền sẽ là:
1/ Các hồ
chứa sẽ giữ lại phù sa đổ xuống từ thượng nguồn. Giảm lượng phù sa có nghĩa là
làm mất cân bằng dòng chảy, gây sạt lở các bờ sông và mũi Cà Mau thì đang bị
cắt lẹm mỗi năm và có nguy cơ từng mảng theo nhau trôi dần ra biển. Với dòng
chảy giảm vì lượng nước bị giữ trong các hồ chứa, cộng thêm biến đổi khí hậu /
climate change với mực nước biển dâng cao và hậu quả là nạn nhiễm mặn / salt
intrusion tiến rất xa vào vùng châu thổ ĐBSCL. Hình ảnh nhà nông học Võ Tòng
Xuân, ngồi giữa một ruộng lúa cháy thuộc quận Gia Rai vì bị nhiễm mặn là cảnh
tượng báo hiệu một thảm hoạ đến đau lòng.
2/ Rõ
ràng mức sản xuất nông nghiệp toàn Lưu vực Dưới sông Mekong / Lower Mekong
Basin từ các vùng trồng trọt ven sông ở Lào, tới vùng châu thổ Tonle Sap Cam
Bốt và ĐBSCL Việt Nam đang bị tổn thất do mất phù sa như nguồn dưỡng chất thiết
yếu cho canh tác ruộng vườn. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây, bấy lâu sông Mekong
là nguồn nước ngọt, nguồn phù sa đã biến ĐBSCL Việt Nam thành cái nôi sản xuất
lúa gạo lớn thứ hai của thế giới chỉ sau Thái Lan nhưng bước sang hai thập niên
đầu của thế kỷ 21, Việt Nam đang bị mất dần thế thượng phong ấy.
3/ Các
khu rừng lũ / flooded forest vùng hạ lưu sông Mekong được công nhận là vùng đa
dạng sinh thái / biodiversity zones với các Vùng Đất Ngập vốn được bảo vệ bởi
Quy ước Ramsar[Ramsar Convention (1971), nhằm bảo vệ và sử dụng tối ưu nguồn
tài nguyên các vùng đất ngập / wetlands và quy định những khu bảo tồn, được mỗi
quốc gia và quốc tế công nhận. Cả 3 nước Lào, Cam Bốt và Việt Nam đều có những
vùng đất ngập được bảo vệ bởi Quy ước Ramsar như: vùng Thác Khone, Stung Treng,
vùng Sinh Thái Biển Hồ, Tràm Chim Tam Nông, Mũi Cà Mau…] Nay thì những hồ chứa
đã và đang nhận chìm các Vùng Đất Ngập và gây huỷ hoại trên hệ sinh thái động
vật và thực vật của toàn lưu vực sông Mekong.
4/ Dòng
sông Mekong càng ngày càng bị biến dạng do chuỗi những con đập dòng chính bậc
thềm và mạng lưới đập phụ lưu, hậu quả là những tác hại trên tính đa dạng của
hệ thuỷ sinh trong đó có những chủng loại quan trọng / flagships species như cá
Dolphin, cá Pla Beuk đang trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
5/ Biến
đổi bản chất tự nhiên của con sông, dòng sông sẽ không còn giữ được “nhịp lũ /
flood pulse” theo mùa, và đây chính là yều tố sinh tử của Biển Hồ Tonle Sap như
trái tim của hệ sinh thái sông Mekong và ĐBSCL. Biến đổi dòng chảy ảnh hưởng
nghiêm trọng tới an toàn thực phẩm trong đó có nguồn cá nước ngọt lớn nhất (có
khi tới 4 triệu tấn mỗi năm, trị giá lên tới 9 tỉ MK) chiếm 80% lượng chất đạm
/ protein thiết yếu của cư dân sông Mekong.
Ủy hội sông Mekong / MRC Không Quyền Lực
Những
lượng giá ảnh hưởng về xã hội và môi sinh của từng con đập không được công khai
hóa, khiến đã có nhiều tổ chức hoạt động môi sinh lên tiếng, nêu rõ những tác
hại nghiêm trọng và lâu dài trên hàng triệu cư dân sống bằng nguồn nước, nguồn
cá, nguồn phù sa của dòng sông Mekong.
Với nhận
định MRC đã rất thụ động trước sự tái phục hoạt của các dự án đập thủy điện hạ
lưu. Không những thế MRC đã không có thông báo gì cho cư dân ven sông mối hiểm
nguy của những con đập ấy, và cả tránh phổ biến những tin tức bất lợi của các
dự án đập.
Trước những kiến nghị của Save the Mekong và các
NGOs, cùng với các thư khuyến cáo của các khoa học gia môi sinh khắp thế giới,
tổ chức MRC và các chính quyền Mekong trong 20 năm qua chưa ngăn cản được một
dự án thuỷ điện nào để bảo vệ lưu vực.
Các nhà
hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tổ chức liên chánh phủ này
“MRC cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho
các nhà đầu tư”, Surichai Wankaew, Giám đốc Viện Nghiên cứu Xã hội Đại học
Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ MRC, thay vì ‘tạo thuận /
facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn đàn / platform’ cho cư
dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ”. Và rồi người ta không thể không
tự hỏi về tương lai và vai trò của MRC có còn hũu ích gì không trong tiến trình
bảo vệ dòng Sông Mekong?
Vai trò
điều hợp của Uỷ hội sông Mekong / MRC đã bị thử thách và Hiệp định Mekong 1995
gần như vô hiệu lực kể từ sau khi Lào vẫn cho khởi công con đập Xayaburi bất
chấp mọi khuyến cáo [Hình IIb].
Công trường xây đập Xayaburi 1,200 MW
con đập dòng chính đầu tiên của Lào [nguồn: Tom
Fawthrop]
Xayaburi
đã như một con cờ Domino đầu tiên đổ xuống, tiếp theo là con đập Don Sahong, mở
đầu cho chuỗi những con đập khác. Đây là những bước phát triển không bền vững /
non-sustainable development, và hoàn toàn bị hướng dẫn bởi nền kinh tế thị
trường năng lượng và các công ty xây đập thì hầu như bất chấp tới cái giá phải
trả về môi sinh của 65 triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong.
Việt Nam không có tiếng nói Công dân
Trong bài báo Tháng Năm 2015 National
Geographic của ký giả Michelle Nijhuis: Harnessing the Mekong or Killing It? có
hai sự kiện đáng chú ý về tiếng nói công dân trong lưu vực sông Mekong.
*Vùng
Đông Bắc Thái Lan:
Khi tới
thăm vùng Bắc Thái, ký giả Michelle Nijhuis kể lại: “Vào một buổi chiều cóng
lạnh cuối tháng Giêng 2013, một nhóm mấy chục cư dân của Bản Huay Luek Bắc Thái
tụ hội lại, nhiều người quấn mền ngồi vây quanh một đống lửa. Họ vừa hoàn tất
chuyến đi bộ dài hơn 120 km dọc theo bờ con sông Mekong nhằm gây sự chú ý của
công luận về những con đập. Hướng dẫn bởi các vị sư sãi với luân phiên tham dự
của những nông dân, các chính trị gia địa phương và cả Tây ba-lô, nhiều người
đã trải qua gần hai tuần lễ trên đường đi, họ đóng trại trên các sân trường học
và sân chùa. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể nghĩ ra được,” Somkiat
Khuenchiangsa, một giáo viên trung học, là người tổ chức buổi tuần hành đã nói
như vậy. “Chúng tôi đã nghiên cứu về các con đập này, đã gửi thư đi, đã tuần
hành, chúng tôi đã phản đối, và phản đối nữa”.
Cũng đêm đó đám người tuần hành nghỉ ngơi
trên những đôi chân mọng nước, tất cả im lắng khi nhà hoạt động Kraisak
Choonhavan lên diễn đàn. Khác với các quốc gia láng giềng, Thái có truyền thống
về tổ chức và tụ hội quần chúng phản kháng / popular protest. Choonhavan nhắc lại với mọi người rằng những
năm trước đây, khi Trung Quốc cho phá các khu ghềnh thác trên sông Mekong, do
có phản đối của các nhóm cư dân Bắc Thái, TQ đã phải ngưng không hoàn tất kế
hoạch khai thông dòng sông. Số những người đó đang có mặt ở đây hôm nay. “Không
có các bạn, họ đã phá tan tành tất cả”. Choonhavan nói tiếp: “Và bây giờ các
bạn lại đứng dậy và một lần nữa dùng sức mạnh của mình”.
Thái Lan
rất có ảnh hưởng trên những con đập dòng chính hạ lưu. Các tập đoàn tài chánh
Thái nhắm vào thị trường năng lượng thuỷ điện, nhưng các thoả ước đầu tư như
vậy cần được sự chấp thuận của chánh phủ Thái. Sự chống đối của quần chúng có
thể thuyết phục đưa tới huỷ bỏ dự án hay ít ra cũng là tái thiết kế / redesign
dự án”(2).
*Vùng
đồng bằng sông Cửu Long:
Xuống tới
ĐBSCL cũng vẫn ký giả Michelle Nijhuis ghi nhận: “Gần khu trung tâm Tây đô Cần
Thơ, Nguyễn Hữu Thiện chuyên gia về các vùng đất ngập, đứng trước mặt là vùng
sông nước, chỉ tay vào những xe gắn máy chạy qua, đa số là đám thanh niên Việt
Nam còn rất trẻ. Ông ta nói: “Có biết bao nhiêu trong bọn họ biết về các con
đập? Ông ta tiếp: “Rất, rất ít trong bọn họ biết những gì đang diễn ra”.
Như mọi đứa trẻ khác, Thiện sinh ra và lớn
lên trong vùng ĐBSCL từ thập niên 1970s, từng bơi lội trong những sông rạch và
các cánh đồng ngập lụt và chụp bắt cá bằng tay… Trường học của Thiện luôn luôn
bị gián đoạn vì chiến tranh, nhưng Thiện cũng lên được đại học và hiện đang
nghiên cứu về bảo vệ sinh học tại Đại học Wiscosin…
Sự trộn lẫn nước mặn và nước ngọt trong
vùng ĐBSCL và qua hàng thế kỷ, với sức người tìm cách ngự trị nó. Đó là một cảnh
trí vô cùng phức tạp và thường được coi như một vùng tách biệt với con sông
Mekong. Năm 2009, Thiện hoạt động bảo vệ các vùng đất ngập / wedlands và anh
được MRC tham vấn về lượng giá các con đập thuỷ điện dòng chính ở Lào và Cam
Bốt. Thiện đã sớm nhận thức được là các con đập ấy sẽ huỷ hoại tất cả những nỗ
lực bấy lâu nơi vùng châu thổ ĐBSCL…
Thiện
nay làm việc cho chương trình lượng giá về các con đập, nhưng anh ta không hy
vọng gì có thể làm hơn các bậc đàn anh. Đôi khi Thiện nói chuyện với các người
anh trong gia đình, đều là những nông dân sinh sống trên thửa đất gia đình.
Nghe vậy, họ cũng chỉ nhún vai nói: “Có làm được gì khác đâu”. Hiện nay, Thiện
cũng có cảm giác giống như vậy. “Chúng ta chỉ có thể chờ xem”. Thiện nói tiếp:
“Chúng phải chờ xem tương lai sẽ ra sao”(2).
Tưởng cũng cần nhắc lại ở đây, tác hại của các con
đập trên cư dân Bắc Thái không thể nào so sánh với ảnh hưởng huỷ hoại tích luỹ
giáng trên đầu hơn 20 triệu cư dân ĐBSCL.
Một thoáng 20 năm Hội Sinh thái Việt
Năm
1957, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh, với bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, một Ủy ban
sông Mekong (MRC / Mekong River Committee) được thành lập bao gồm 4 nước Thái
Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam; với kế hoạch phát triển vùng Hạ lưu sông
Mekong / Lower Mekong Basin nhằm cải thiện cuộc sống cho toàn thể cư dân sống
trong lưu vực. Nhưng rồi cuộc Chiến tranh Việt Nam lan ra cả ba nước Đông
Dương, mọi kế hoạch phát triển sông Mekong đã hoàn toàn bị ngưng trệ.
Năm
1995, vẫn bốn nước hội viên gốc của Ủy ban sông Mekong đã họp tại Chiang Rai,
Bắc Thái cùng ký kết một “Hiệp ước Hợp tác Phát triển bền vững lưu vực sông
Mekong” và mang một tên mới là Ủy hội sông Mekong (MRC / Mekong River
Commission), với một thay đổi cơ bản trong Hiệp ước là không một thành viên nào
có quyền phủ quyết cho dù dự án bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng chính
sông Mekong. Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đại diện cho Việt Nam, do thiếu viễn
kiến đã đặt bút ký cho Hiệp ước Hợp tác Phát triển “Không Bền Vững /
non-sustainable” này, với những di lụy không ít cho tương lai vì Việt Nam là
một quốc gia cuối nguồn.
Ngay sau
khi có tin TQ đã hoàn tất con đập Mạn Loan 1,500 MW, rất sớm từ 1995 Nhóm Bạn
Cửu Long lên tiếng báo động qua một cuộc hội thảo ở Little Saigon, về mối đe
doạ của những con đập thượng nguồn Vân Nam TQ đối với các quốc gia hạ nguồn và
nghiêm trọng nhất là với ĐBSCL, cũng là vựa lúa của Việt Nam.
Rồi một
bài báo đăng trên Tuổi trẻ Chủ nhật (03-11-1996): Khai thác sông Mekong: nhìn
từ góc độ Việt Nam đứng tên KS Phạm Phan Long nhưng do 4 người viết, họ đều là
những chuyên gia từ hải ngoại: TS Phạm Văn Hải (USA), KS Nguyễn Hữu Chung
(Canada), TS Bình An Sơn (Australia). Nội dung bài viết ấy cho tới nay vẫn còn
nguyên tính thời sự. [Hình IV]
Năm 1999,
một Hội nghị Mekong mở rộng do Mekong Forum và Vietnamese American Science
& Technology Society đồng tổ chức tại Nam California với chủ đề: “Hội thảo
về sông Mekong trước Nguy cơ, Ảnh hưởng Phát triển trên Dòng sông, ĐBSCL và Cư
dân” với sự tham dự của liên hội Tiền Giang và Hậu Giang, TS Sin Meng Srun Hội
người Cam Bốt tại Mỹ, và Iviva Imhof thuộc tổ chức Mạng lưới Sông ngòi Quốc tế/
International Rivers Network. Kết thúc hội nghị là một bản Tuyên cáo “The 1999
Mekong River Declaration” được gửi tới MRC và nhiều tổ chức liên hệ khác.
Năm
2002, người viết đề nghị thành lập một Phân khoa Mekong tại Viện Đại học Cần
Thơ, với nguồn chất xám là các chuyên viên và ban tham vấn của MRC. Đó sẽ là
một trung tâm giảng dạy và nghiên cứu về con sông Mekong, không phải chỉ riêng
cho Việt Nam mà cho cả 7 quốc gia trong lưu vực, nhằm đào tạo những chuyên viên
có trình độ sẵn sàng đương đầu với những vấn nạn Khai thác Phát triển và Hủy
hoại Môi sinh trong toàn lưu vực sông Mekong. Ý kiến đó cũng được nhắc lại
trong cuộc phỏng vấn với phóng viên báo Tuổi Trẻ năm 2009.
Hội Sinh
thái Việt / Viet Ecology Foundation như một NGO được thành lập với một trang
nhà http://www.vietecology.org với mục tiêu: thăng tiến và bảo vệ sự cân bằng
sinh thái vô cùng thiết yếu cho cuộc sống. Với hơn 100 bài viết đã đăng tải
trên VEF, ngoài phần tiếng Việt, có phần tiếng Anh với nội dung đều phản ánh
tầm nhìn này. Một số bài viết này cũng đã được trích dẫn trên
livingriversiam.org, china-mekong group, Meltdown in Tibet… Diễn đàn VEF cũng
đưa sáng kiến thay thế Hiệp định Mekong 1995 bằng Lancang Mekong River
Initiative, Lancang Mekong International River Treaty, và trước nguy cơ biến
đổi khí hậu / climate change, một dự thảo Mekong Sea Dyke đã được đề xuất để
nghiên cứu.
Trải qua hai thập niên đầy biến động trên sông
Mekong, nhưng xem ra tiếng nói từ hải ngoại ấy hầu như không có sức thẩm thấu
đáng kể nào đối với người dân trong nước, với một chính quyền thì vô cảm và cố
tình bưng bít mọi thông tin. Các quốc gia láng giềng của Việt Nam thì không có
tỏ chút dấu hiệu nào chậm bước thực hiện cho bằng được chuỗi những con đập thuỷ
điện của họ. Không dừng ở đó, Trung Quốc còn vươn cánh tay xa xuống khúc sông
hạ nguồn tài trợ vốn và cả kỹ thuật để hai quốc gia Lào và Cam Bốt mau chóng
thực hiện các dự án đập bất chấp cái giá môi sinh phải trả từ phía Việt Nam.
Hơn thế nữa, Trung Quốc còn đang tàn phá rộng rãi cao nguyên Tây Tạng, được coi
như Cực Thứ Ba / Third Pole của hành tinh này, nơi phát xuất tất cả những con
sông lớn của Châu Á, trong đó có con sông Mekong.
bài báo đăng trên Tuổi trẻ Chủ nhật 03-11-1996
Đã ngót 7
thập niên (1957 – 2015) từ ngày Liên Hiệp Quốc thành lập Uỷ ban sông Mekong,
theo với thời gian là sự tăng tốc khai thác hủy hoại hệ sinh thái của con sông
Mekong mà Việt Nam là quốc gia cuối nguồn, nhưng lại tỏ ra rất thụ động với
thái độ “chờ xem”.
Thế kỷ 21, Thế kỷ Tỵ nạn Môi sinh:
Thế Kỷ
20, đánh dấu bởi hai cuộc tỵ nạn chính trị lớn. 1954: hơn một triệu người từ
Bắc di cư vào Nam tránh nạn cộng sản. 1975 và những năm sau là cuộc tỵ nạn cộng
sản lần thứ hai, lớn lao hơn nhiều với hơn 2 triệu người thoát ra khỏi nước.
Thế Kỷ
21, dự trù sẽ là thế kỷ của tỵ nạn môi sinh / ecological refugees.
“Theo
phỏng định, kể từ những thập niên 1950s, chỉ riêng Trung Quốc, đã có tới khoảng
22 triệu người phải di tản khỏi những khu xây đập. Từ những thập niên 1990s, có
hơn một triệu dân du mục và nông dân Tây Tạng – chiếm 1/6 dân số – đã phải rời
ra khỏi những khu thảo nguyên / grasslands vì khai thác hầm mỏ và những khu xây
đập của TQ”(3).
Trong
Lưu vực sông Mekong, để khai quang cho những khu xây đập và hồ chứa khổng lồ,
hàng trăm ngàn người đã phải rời bỏ nơi cư trú truyền thống, bỏ làng mạc nhà
cửa, với rất ít được đền bù và bước vào cuộc sống vô định. Họ đích thực là thế
hệ của những “dân tỵ nạn môi sinh / ecological refugees”.
Hơn 20
triệu cư dân ĐBSCL đang trước nguy cơ: mất nguồn nước ngọt, mất nguồn phù sa,
và cả vùng châu thổ phì nhiêu đang chìm dần trong biển mặn. Hậu duệ của những
thế hệ dũng mãnh tiên phong khai phá trong cuộc Nam tiến cách đây mới ba trăm
năm, thì nay đang bị bất động, không được quyền cất tiếng nói ngay trên đất
nước mình và đang chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ bị xoá đi cả một nền Văn
Minh Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, rồi ra trên tầm vóc quốc gia,
sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh / ecological refugees vào giữa thế kỷ 21 này.
Nhưng sẽ đi về đâu?
Có vùng
đất nào trên toàn lãnh thổ Việt Nam còn bảo tồn được một hệ sinh thái lành
mạnh, khi mà cả Vùng Đất Hứa Tây Nguyên với những khu rừng nhiệt đới đã bị tàn
phá rộng rãi, để lại những vùng đất chuồi khô cằn với cả ngập tràn những vũng
bùn đỏ bauxite. Cuối thế kỷ qua, hàng triệu người Việt Nam đã được nhập cư vào
các quốc gia khác với quy chế tỵ nạn chính trị / political refugees nhưng có lẽ
sẽ không một quốc gia nào chấp nhận hàng triệu người tỵ nạn môi sinh, không
được coi như tỵ nạn chính trị.
California 06/06/2015
Ngô Thế
Vinh
Tham Khảo:
1/ Meltdown in Tibet. Michael Buckley. Palgrave
Macmillan_ St. Martin’s Press LLC. New York 2014
2/ Harnessing the Mekong or Killing It? Michelle
Nijhuis, Photographs by Guttenfelder. National Geographic, May 2015
3/ The Price of Damming Tibet’s Rivers. Michael
Buckley. The Opinion Pages, New York Times March 30, 2015
4/ Global Ecology and the “Made in China’s Dams. Ngô
Thế Vinh. Viet Ecology Foundation, July 2010.
http://vietecology.org/Article.aspx/Article/62#
5/ Mekong, The Occluding River. The Tale of a River.
Ngô Thế Vinh. iUniverse, Inc. New York 2010
6/ Damming the Mekong: Major blow to an Epic River,
Yale Environment 360, 22 June 2009
7/ Plans For Dams On Mekong River Could Spell
Disater For Fisheries. John Sullivan
http://www.princeton.edu/engineering/water/story-04/
8/ Power Struggle: The Impacts of Hydro-Development
in Laos. Aviva Imhof, International Rivers Network, February 1999.
No comments:
Post a Comment