Saturday, February 4, 2017

VẪN LÀ MÙA XUÂN, VẪN LÀ NỤ CƯỜI


Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Asian teapot and daffodils. Source: Internet

1
       Tôi ngỡ ngàng. Đứa con trai đẩy chiếc xe lăn tới trước mặt tôi. Dù con đã nói trước, cũng như bác sĩ đã nói trước, rằng từ nay tôi phải sử dụng xe lăn, tôi vẫn cảm thấy mình choáng váng khi nhìn thấy nó. Người bạn của tôi từ nay về sau là đây ư? Tôi như người bước hụt chân trong giấc mơ.
        “Ba, con đỡ Ba ngồi vô nghen!”
        Như là nghe một thứ tiếng lạ nào. Tuy vậy, tôi vẫn rướn người đứng dậy. Không thể. Đôi chân tôi đã yếu quá rồi! Tôi đành để con trai đỡ tôi ngồi vào xe lăn. Thì cũng như một chiếc ghế dựa thôi mà! Còn êm ái nữa là khác! Hãy làm quen với nó!
        Thật khó khăn. Tôi tự an ủi trong ý nghĩ rằng nào phải mình chưa biết mùi ngồi xe lăn. Đôi ba lần trong đời nhà binh, bị thương, nằm bệnh viện, ngồi xe lăn, chờ vết thương lành hẳn. Mới đây thôi, những lần đi máy bay, ngồi xe lăn cho nhân viên phi trường đẩy đi cho mau vì mình không còn là trai trẻ. Vậy có khác gì? Rồi tôi giật mình. Khác chứ! Khác rất nhiều. Những trường hợp kia là tạm thời, vì sau đó tôi vẫn đứng lên được, đi đứng bình thường. Nhưng lần này là mãi mãi. Ôi Trời Phật ơi! Đôi chân tội nghiệp của tôi đã không buồn cử động. Đúng ra là có, nhưng rất ít, rất yếu, không đủ để tôi đứng dậy, không đủ để tôi nâng bước. Tôi đã chịu thua. Bây giờ có tập vật lý trị liệu cũng chỉ để làm dáng cho vui. Tôi phải chấp nhận.
         Và đó là cảm giác của tôi trong ngày đầu…

         Bây giờ thì tôi bước sang một trạng thái khác. Tôi không còn thấy xa lạ với chiếc xe lăn. Nhưng cảm giác không giống như cảm giác đối với cái “walker”. Lúc trước, với cái “walker”, tôi hy vọng rằng có ngày chân tôi khỏe lại, tôi sẽ nói lời từ giã nó. Còn bây giờ, tôi thấy chua chát. Dù muốn hay không, tôi đành phải “gắn bó” với người bạn này.
         Bỗng nhiên tôi muốn co rút lại, giống như một đứa bé thích chui vào một tấm chăn để đừng ai thấy mình và mình cũng chẳng thấy ai.
         Nhà có hai tầng. Tôi chọn rút về tầng hầm. Không chọn cũng không được, vì từ cửa sau của tầng hầm có đường dốc thoai thoải, tiện lợi để đẩy xe lăn. Còn nếu đi ra bằng cửa trước thì chỉ có các bậc tam cấp, khó khăn hơn. Tôi thích cái không gian yên tĩnh này. Một đôi lần có họp mặt bà con ở tầng trên, con trai phải bồng bế tôi lên. Những lúc đó tôi la hét vì chịu cái cảm giác đau đớn như xé hai chân. Là bởi vì tôi đã ráng lết đi. Tôi tưởng mình có thể lên được những bậc thang. Nhưng không có phép lạ. Thật hết chịu nổi! Tôi muốn khóc.
         Sau những buổi như vậy tôi trở nên cáu kỉnh hơn. Tôi ngồi hàng giờ nhìn đôi chân. Chân tôi vẫn còn cảm giác, vẫn có thể cử động. Nhưng chúng đã vô dụng. Tôi không còn sức. Tôi muốn ngủ một giấc thật dài để đừng nghĩ ngợi, để quên hết mọi chuyện.
         Nhưng sao lúc này tôi lại sáng suốt không ngờ. Tôi lặng nhìn ra khoảng không, thấy như hai cánh cổng của một khu vườn mở ra, chan hòa ánh nắng…

         Ngày mùa xuân thật ấm. Tôi được về phép. Cả nhà như rộn ràng hẳn lên. Tôi dẫn vợ con đi chợ Tết. Tôi không dám nhắc đến trận mạc mình mới từ đó trở về. Nó như không có thật. Ở đó là máu lửa, là chết chóc. Còn ở thành phố này, trái ngược hẳn, là một chốn bình yên. Có chăng là những đêm vắng nghe tiếng đại bác xa xa vọng về không đủ làm trẻ nhỏ giật mình. Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng đó là thực tế của cuộc đời chúng tôi. Đó cũng là lý do để chúng tôi cầm súng ra trận.
         Tôi đã từng là một người lính.
         Rồi cái khu vườn mùa xuân đó bỗng tối sầm lại. Tiếng hai cánh cổng rít lên rồi đóng rầm nhức óc. Tất cả chỉ còn là một vùng đen lặng thinh.

2

         “Mình ngủ quên hồi nào? Để tôi đưa mình vào giường.”
         Tôi nằm mơ nữa chăng? Gương mặt này quen thuộc quá, thân yêu quá! Vậy mà đã có một thời gian tôi không nhận ra, dễ cũng mất mấy tháng trời, sau cái trận gọi là “tai biến” đó. Tôi không nhớ một ai, đến khi tưởng là nhớ được thì lại nhầm lẫn lung tung. Có khi tôi nói lộn tên mấy đứa con, chúng được dịp cười bò lăn. Chúng cười là muốn làm cho tôi vui thôi. Chúng tôi nói năng một cách khôi hài với nhau.       Tôi nhớ nhớ quên quên, ý tứ lộn xộn như trong một mớ chỉ rối. Vậy mà tôi đã tập được. Bác sĩ bảo con trai giúp tôi tập. Con trai thường gợi ý cho tôi nhớ lại chuyện xưa. Nó hầu như “ra lệnh” cho tôi. Và tôi tuân theo nó như tuân lệnh một cấp chỉ huy. Ấy thế mà tôi đã phá được cái vùng đen lặng thinh. Tôi nhìn thấy tôi trong những khu trại gồm những căn nhà lụp xụp. Đi đâu cũng có người canh gác. Chúng tôi làm việc trên những khu rẫy trồng khoai sắn. Tôi nhìn thấy tôi những khi bụng đói chân run. Tôi nhìn thấy tôi đang nghe những bài thuyết giảng xoáy sâu nhức óc. Có khi tôi ôm lấy đầu như đang sống thực trong khoảng thời gian đó. Con trai bảo tôi kể đi, kể cho trí nhớ phục hồi. Tôi kể. Có lúc tôi bật khóc. Tôi như kẻ đang bị tra tấn. Tôi nghe đau đớn trong từng tế bào não… Nhưng khi cơn đau qua đi, tôi thấy tôi đã khá hơn.
         Và tôi không còn nhầm lẫn nữa. Nhất là với người này, vợ tôi.
         Tôi hỏi:
         “Con đâu?”
         “Nó còn ngồi máy trên nhà. Để tôi đỡ mình.”
         “Không, phải gọi con thôi! Mình không đỡ tôi nổi đâu!”
         “Tôi làm được mà!”
         “Mình cũng như tôi, xấp xỉ tám mươi rồi, không phải thanh niên nữa.”
         Đôi mắt kia bỗng long lanh giọt lệ. Vợ tôi vẫn nhu mì, đa cảm như thế đó. Ôi, tôi ước gì chúng tôi được trẻ lại để có thể tay trong tay chạy băng qua những cánh đồng đầy hoa cỏ mùa xuân…
         Gần sáng, tôi thức dậy. Chiếc ghế sofa đặt thẳng góc với giường tôi trống trơn. Có tiếng tụng kinh văng vẳng từ nhà trên vọng xuống. Tôi không rõ từ lúc nào vợ tôi đã chăm chỉ kinh kệ mỗi ngày. Điều này trở nên quen thuộc đến nỗi tôi không thắc mắc. Tôi tự trả lời rằng có lẽ là từ ngày tôi bị “stroke” vợ tôi đã cầu khấn Ơn Trên ban sự bình an cho tôi. Bà ấy đã chẳng bao giờ kể lể.
         Tôi ngồi dậy, đưa tay định bấm vào cái nút gắn ở đầu giường như thường lệ. Con trai sẽ nghe tiếng chuông và chạy xuống đỡ tôi vào xe, giúp tôi vào nhà tắm. Nhưng tôi ngừng lại. Tôi tự bảo hãy thử làm một mình. Tôi nắm một tay lên tay vịn của chiếc xe, tay còn lại chống lên giường. Tôi chỉ có thể cử động phần trên. Lấy hết sức lực, tôi như quăng mình lên đệm xe. Chiếc xe lắc mạnh, và Trời ơi, nó… không ngã. Tôi nghe đau buốt hai chân. Nhưng một cảm giác chiến thắng òa đến. Tôi vui lắm! Và tôi dùng hai bàn tay lăn bánh xe đi khắp phòng. Tôi bắt đầu dọn dẹp những vật dụng trên bàn, trong tủ, nơi nào tôi có thể vói đến. Đồ đạc trong phòng khá nhiều, con trai bảo có nhiều đồ đạc thì căn phòng sẽ ấm hơn.   Nhưng bề bộn, lôi thôi quá! Tôi phải sắp xếp lại cho đúng ý. Đây rồi, những khung ảnh của ngày xưa, thời niên thiếu, thời tuổi trẻ của tôi. Những hình ảnh khi tôi đã qua đây, chụp cùng các chiến hữu trong những buổi họp mặt. Giờ đây kẻ còn người mất. Tôi nao lòng. Nhớ quá, đồng đội ơi!
           Và đây rồi! Mấy quyển sách nhạc. Tôi mở ra. Từ lúc nào tôi đã không hát lại những bản nhạc này. Một thời gian trí nhớ như mù sương khiến tôi quên bẵng chúng. Tôi lẩm nhẩm hát lại. Và rồi không cần nhìn vào trang sách nữa, tôi hát như từ trong tim. Tôi nhắm nghiền đôi mắt, hát say sưa.

3

         Sắp bước sang xuân, trời ấm dần. Con trai thường đưa tôi “đi phơi nắng”. Bác sĩ bảo người già cũng như em bé, cần có ánh nắng. Trừ những lúc đẩy xe lăn cho tôi được thưởng thức cái không khí thoáng mát trên đường hay trong công viên, còn một nơi con trai cũng thích đưa tôi đến: tiệm cà phê Starbucks. Chúng tôi không vào bên trong mà chọn ngồi phía ngoài. Tôi ngồi phơi nắng và thưởng thức ly cà phê nóng hổi. Hai cha con yên lặng nhìn người qua kẻ lại.
         Có một lúc tôi thôi nhìn thiên hạ, mà nhìn qua con trai. Tôi se lòng khi chợt thấy vài sợi tóc bạc trên đầu của con. Con trai mình không còn trẻ nữa! Nó là con trai đầu lòng. Các em đã có gia đình, có con cái. Con trai cả vẫn ở độc thân. Nhiều lần chúng tôi bảo nó lấy vợ đi, nó cự nự.
       Bỗng dưng tôi thốt lên:
       “ Con nè, ai đó đã nói rằng trong một gia đình đông con thì thế nào cũng có một đứa ở vậy chăm sóc cha mẹ già. Điều đó Ba đã thấy đúng ở một số gia đình của bạn bè và… cả gia đình của mình nữa. Có phải đó là một sự thiệt thòi cho đứa con ấy không?”
      Con trai cười thành tiếng:
      “ Ba lại sắp “ca bài con cá” với con nữa? Khi nào con gặp được người vừa ý thì con sẽ hối Ba Mẹ chạy không kịp đó!”
      “Ba cũng mong như vậy. Thời nay cha mẹ đâu có phải lo nhiều, các con đủ sức lo cho mình. Ba chỉ thấy con hy sinh cho Ba nhiều quá! Con vừa phải đi làm, vừa lo chăm sóc Ba…”
      “Con thấy vui mà ba!”
      Hai cha con cùng im lặng. Tôi nghĩ thà cứ ngô nghê như hồi mới bị bệnh mà hay. Càng phục hồi trí nhớ, càng hiểu về những việc xung quanh, càng thấy khổ tâm.
      Trên lề đường trước tiệm cà phê, có vài người già chống gậy đi ngang. Họ cũng có cái thú đi uống cà phê buổi sáng. Tôi nhìn lại mình và chiếc xe lăn, không nén được tiếng thở dài. Con trai chợt nắm chặt bàn tay tôi, nói vội:
      “Ba, Ba uống cà phê đi kẻo thành cà phê đá.”
      “Ừ, để Ba uống. Trời lạnh…”
      Tôi không muốn giấu giếm cảm xúc của mình lâu. Tôi nói như trút nỗi niềm với con:
      “ Con muốn Ba đừng ái ngại cho con, thì Ba cũng muốn con đừng lo âu cho Ba. Thật sự thì có những lúc Ba xuống tinh thần lắm. Ba bị trầm cảm con à! Cho đến cái ngày Ba tình cờ nhìn thấy quyển sách con để trong tủ, lúc Ba lục đục sắp xếp, dọn dẹp vào sáng sớm. Ba thấy lạ, quyển sách này Ba chưa hề thấy bao giờ. Ba tưởng mình quên, nên Ba giở ra. Là quyển sách do Sullenberger viết…”
      Con trai hoảng hốt:
      “Ba đã đọc?”
      “Phải, Ba đã đọc, “Highest Duty: My Search for What Really Matters,” tâm sự của người phi công anh hùng trên dòng sông Hudson. Sully cứu được mạng sống của cả trăm con người nhưng rất đau khổ vì ngày xưa đã không cứu được cha mình. Ba biết con đã đọc kỹ quyển sách này, Ba hiểu tâm trạng của con. Con hãy nhớ một điều: cái ý chí muốn sống phải là do chính người ấy quyết định. Cha của Sully đã không muốn sống…”
       Thốt được bấy nhiêu lời, tôi nghe lạnh cả người. Đôi mắt con trai đỏ lên. Thằng bé từ nhỏ đến lớn hầu như chẳng bao giờ khóc. Nó là đứa kiên cường nhất nhà. Khi tôi khăn gói vào trại tù cộng sản thì nó là đứa khăn gói lên vai buôn bán tảo tần cùng mẹ lo cho đàn em. Không, con ơi, Ba thề sẽ không bao giờ để lại cho con một gánh nặng tâm hồn như Sully.
       Nét mặt của con trai như giãn ra. Nó có vẻ thoải mái. Dường như nó đã dẹp được một tảng đá đè nặng trong lòng.
       Bỗng nhiên tôi muốn ca hát. Mấy hôm nay tôi nhớ lại khá nhiều bài nhạc ngày xưa tôi vẫn thường hát. Tôi tưởng tượng những buổi văn nghệ trong trại lính sau ngày hành quân. Ôi sao mà thuở đó mình hát như thuộc lòng. Bây giờ có những đoạn tôi nhớ không nổi. Con trai nói sẽ tìm trong internet và in ra cho tôi hát. Tôi bảo tôi sẽ nhắc nó… nếu nó quên.
       Tôi cất tiếng hát một bản ruột. Bản “ Tâm Sự Người Lính Trẻ.” Tôi nhắm mắt lại. Hình như khi nhắm mắt người ta sẽ chú tâm nhiều hơn, nhớ nhiều hơn, và cũng lắng nghe nhiều hơn. Tôi lắng nghe tiếng lòng của mình. Tôi biết có một anh bạn, sau khi bị “stroke”, nói năng lắp bắp không rõ lời, nhưng khi hát lại rất trôi chảy. Bác sĩ bảo hãy cứ hát. Âm nhạc là một phương thuốc quý giá. Dần dần trí nhớ của anh phục hồi được một phần, mà nói năng cũng rõ ràng hơn.
       Tôi để tiếng lòng mình lan tỏa. Tôi hát không cần đàn, không cần có bản nhạc trước mặt. Hát xong một bài, tôi cười vang sung sướng rồi bắt qua một bài khác. Hình như có vài người khách vừa uống cà phê vừa lắng nghe. Tôi như bắt được một nhịp thông cảm. Một lát, có một người phụ nữ da trắng từ trong tiệm đi ra, đứng lại bên tôi và lắng nghe. Khi tôi dứt bài hát, bà nói:
      “Ông hát hay quá! Tôi thích giọng hát của ông,”
      “Cám ơn bà.”
      Người phụ nữ ngập ngừng:
      “Cha tôi cũng đã từng hát như thế, trước tiệm cà phê này...”
      “Cha của bà…?”
      “Vâng. Cha của tôi đã qua đời cách nay vài năm. Ông vốn rất thích hát. Khi giải ngũ trở về ông đã mất hết cả hai chân. Nhưng ông sống rất lạc quan. Ông thích ngồi ngay chỗ này để phơi nắng, uống cà phê, ngắm người qua kẻ lại. Và ông hát cho mọi người nghe… “Where Have All The Flowers Gone?” và nhiều bài nhạc thời chiến tranh. Cha tôi đã từng là một người lính.”
      “Cám ơn bà đã chia sẻ câu chuyện. Tôi, tôi cũng đã từng là một người lính.”
      “Thế ư? Thật hay quá!”
      “Cám ơn bà.”
      “Ông có biết không, những người đến uống cà phê ở tiệm này sẽ thưởng thức những bài hát của ông, dù có thể họ không hiểu lời bài hát. Nhưng ông hát như một cách đem mùa xuân đến cho họ. Biết đâu trong số đó cũng có những người như tôi. Họ sẽ cảm thấy được an ủi. Tôi cám ơn ông nhiều lắm!”
Và như thế, tôi đã trở thành người “ca sĩ” thường xuyên mỗi cuối tuần trước tiệm cà phê Starbucks này.

Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Xuân Đinh Dậu 2017

No comments:

Post a Comment