Hồ
Đình Nghiêm
Tranh Chèo của Bùi Xuân Phái
Hôm
qua, bữa kia hay hôm nay, ở cố hương có tổ chức Ngày Thơ Việt Nam. Chẳng rõ
ngày ấy có in vào lịch kiểu như 14 tháng 2 là Valentine’s Day? Chắc không đâu
nhỉ, bởi xem chừng giới cầm bút vẫn lục đục chả có mấy ai “nhất trí” thuận
lòng.
Nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều (Hà Nội) từng nhận định, một cách vô thưởng vô phạt:
“Đối với đời sống cơm áo gạo tiền thì thơ ca hoàn toàn vô dụng. Nhưng khi một
con người hoang mang không biết họ là ai nữa và không biết phải làm gì thì thơ
ca chân chính bước đến và đưa cho họ một chiếc chìa khoá”.
Nhà
văn Nguyễn Viện (Sài Gòn) vừa đưa lên facebook hai câu:
“Hôm nay mừng Hội
Ngày Thơ
Chị em phụ nữ mang lờ
t(r)ẩy hôi”
/ Chú thích hai chữ cuối là ‘trẩy hội”.
Cũng
ở Sài Gòn, cũng nhờ facebook, nhà thơ Đỗ Trung Quân viết: “Không gì bôi nhọ quá
chính xác nhân cách một người bằng cách gọi đấy là NHÀ THƠ”.
Cách
phát biểu của ông Đỗ Trung Quân nghe “bức xúc” quá. Có lẽ vì từng nghe ông Bảo
Sinh (Hà Nội) phán:
“Ai cũng làm được nhà
thơ
Ai cũng có thể “sù
cơ” của mình”.
Lôi
thôi thật! Và lạ kỳ làm sao khi nhìn thấy phóng ảnh chụp lại trang vở của một
em học sinh trung học cơ sở nào đấy. Đề bài: Em hãy viết lại bài thơ Qua Đèo
Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Điểm cô cho là 1. Và ô ghi lời phê của giáo viên
thì bỏ trống. Sau đây là nguyên văn của trò ấy (viết mực xanh, chữ nắn nót rõ
ràng):
“Bước tới đèo Ngang
bỗng mất đà
Đập đầu vô đá, máu
tung ra
Lom khom dưới núi,
tìm y tá
Y tá theo trai, đéo
có nhà
Thiếu máu đau đầu, em
sắp chết
Khắc lên bia mộ hai
dòng chữ
Bước tới đèo Ngang
phải lấy đà”.
Trò
này chẳng biết có bà con xa láng giềng gần với trò Phạm Quốc Đạt? Đạt học lớp
11 chuyên Toán từng viết một cái đơn xin phép “ăn chơi không sợ mưa rơi”:
“Gửi ban giám hiệu
trường ta
Cùng cô chủ nhiệm
chính là cô Nhung
Hôm nay em viết đơn
này
Kính xin được nghỉ
một ngày dưỡng thương
Em tuy vẫn nhớ lớp
trường
Nhưng mà sức khoẻ khó
lường mới nguy
Suốt đêm em sốt ly bì
Trán nay nóng hổi yếu
suy quá chừng
Việc học chắc phải
tạm ngừng
Để còn điều trị kẻo
chừng thăng thiên
Bài ghi em sẽ chép
liền
Em xin lỗi đã làm
phiền thầy cô!”
Cả
hai học sinh trên sẽ đứng về phía đông để thuận lòng cho luận cứ: Dân tộc ta
hầu như ai cũng đều chứa máu thi sĩ trong người. Đúng hoặc sai thì nó cũng tựa
ánh sáng cuối đường hầm. Phải dò dẫm đi mới biết độ bền của sức chịu đựng, nói
theo Nguyễn Quang Thiều, phải “hoang mang, không biết là ai, phải làm gì thì
thơ chân chính mới đến trao tay chiếc chìa khoá”. Hãy đốt lên một cây diêm còn
hơn ngồi nguyền rủa bóng tối.
Trong
vô vàn đốm sáng tôi chợt nhìn ra lung linh một ánh lửa: Hoàng Nhuận Cầm. Tôi
đọc thơ anh khá muộn, những năm trước, khi blog Quê Choa còn nhiều sức sống, có
đăng bài thơ “Vô Cùng” và cái tên Hoàng Nhuận Cầm đã đi ngay vào trí nhớ tôi:
“tất cả chúng ta thật
lòng nói dối
tất cả chúng ta áo
đẫm mồ hôi
tất cả chúng ta căn
nhà chật chội
giữa cõi vô cùng vô
tận mà thôi
tất cả chúng ta đều
bị theo dõi
tất cả chúng ta sắp
bị bắt rồi
tất cả chúng ta như
bầy chó đói
ngửa mặt lên trời
hóng bóng trăng rơi
tất cả chúng ta đều
không vô tội
mỗi đêm một tờ giấy
trắng mồ côi”.
Hoàng
Nhuận Cầm sinh năm 1952 ở Hà Nội, anh là con đầu lòng của nhạc sĩ Hoàng Giác.
Bài thơ “Vô Cùng” như một quyến rũ ban đầu, tôi tìm thêm những bài khác và hôm
nay xin chép lại ba (3) bài mà tôi yêu của một nhà thơ từng là bộ đội tham
chiến ở cổ thành Quảng Trị mùa tang tóc 1972. Để thấy “gà cùng một mẹ” đã có
tiếng “gáy” khác nhau giữa rạch ròi Bắc-Nam. Tôi tin, với những gì Hoàng Nhuận
Cầm trải lòng, hẳn anh sẽ có chỗ đứng tách biệt với cái gọi là “ngày hội thơ”.
TÍNH
NHẨM
21 tuổi hồn nhiên như
vậy đó
3 bài thơ nhân với 7
hẹn hò
khi rượu cạn, hoa
tàn, tim tắt nến
thỏi son hồng ra ngõ
đứng co ro.
SÔNG
THƯƠNG TÓC DÀI
mai đành xa sông
Thương, thật thương
muôn kiếp tình thương
anh gửi lại
sông ơi sông, sao
sông trôi chảy mãi
Hạ chưa về, nhưng
nắng đã Côn Sơn
mai đành xa sông
Thương, thật thương
mắt nhớ một người,
nước in một bóng
mây trôi một chiều,
chin kêu một giọng
anh một mình náo
động, một mình anh.
VIÊN
XÚC XẮC MÙA THU
tình yêu đến trong
đời không báo động
trái tim anh chưa lỗi
hẹn bao giờ
viên xúc xắc mùa thu
trong cỏ
mắt anh nhìn sáu mặt
bão mưa giăng
anh đi qua những
thành phố bọc vàng
những thị trấn mẹ ôm
con trên cỏ
qua ánh nắng bảy màu,
qua ngọn đèn hạt đỗ
qua bao cuộc đời tan
vỡ lại hồi sinh
anh đi qua những đôi
mắt lặng thinh
những đôi mắt nhìn
anh như họng súng
anh đi qua tổ chim
non mới dựng
qua tro tàn thành
quách mấy triệu năm
anh đi qua tất cả mối
tình câm
mối tình nói, rồi mối
tình bỏ dở
đôi tay kẻ ăn xin,
đôi môi hồng trẻ nhỏ
đất nước đau buồn
chưa hết, Mỵ Châu ơi!
lông ngỗng bay như số
phận giữa trời
Trọng Thuỷ đứng suốt
đời không hết lạ
vệt lông ngỗng con
đường tình trắng xoá
có ai hay thăm thẳm
giếng không cùng
nhưng chính anh không
hay số phận lại điệp trùng
khi mở mắt Mỵ Châu
em ngồi đó
toa thứ ba ôm cặp ai
nức nở
suốt đời anh mang tội
với con tàu
sẽ tan đi những thành
phố bảy màu
đôi trái cấm trong
vườn đời em, anh làm vỡ
những giọt mực thứ ba
em ơi không thể lỡ
xin trải lòng ta đón
chấm xanh rơi
giọt mực em thong thả
đến trong đời
không giấu được trong
lòng tay nhỏ bé
viên xúc xắc xoay
tròn trong gió xé
sáu mặt đời lắc cắc
tiếng thơ anh.
Cám
ơn Hoàng Nhuận Cầm. Thơ anh giàu có những hình ảnh đẹp. Cái đẹp khởi đi từ nỗi
buồn sâu lắng, sầu khổ như một tự nguyện mỗi đêm một tờ giấy trắng mồ côi.
Phải mồ côi, phải viết một tờ đơn xin phép nghỉ học, như vậy khi lỡ qua đèo
Ngang sẽ không bị đập đầu vô đá, máu tung ra. Chưa thấy ánh sáng cuối đường
hầm, điều đó chưa hẳn là cả một sự tuyệt vọng, bởi vì thiếu bóng tối, bạn chẳng
tài nào trông thấy những vì sao.
Dante
từng nói: “Par l’amour qui meut le soleil et les autres étoiles”. Tình yêu
trong cụm chữ này chỉ có nhà thơ chân chính mới thông tình đạt lý.
Saint-Valentin thì nên ghi vào lịch nhắc nhở. Ngày hội nhà thơ thì nên để cho
mấy ông quen “sù cơ” sum vầy tán chuyện với nhau!
HỒ
ĐÌNH NGHIÊM
No comments:
Post a Comment