Huyền Chiêu
Cung Đàn Xưa. Văn Cao
Dù nhạc sĩ Văn Cao sống ở miền bắc, trước năm 1975, người miền nam không hề xa lạ với ông. Những Bến Xuân, Buồn Tàn Thu, Suối mơ, Trương Chi, Sông Lô… luôn được hát, được yêu mến. Và chúng tôi càng yêu ông, thương xót cho ông hơn khi biết rằng sau khi đất nước trở thành đôi bờ chiến tuyến, ông không còn sáng tác. Lý do tại sao , tôi không được rõ. Có thể ông bị cấm sáng tác, có thể tự ông muốn biến thành người câm khi biết rằng tâm hồn mình đã trở thành cung đàn lỗi nhịp.
Trong khi ở miền nam, Phạm Duy, người bạn
thân của ông, như con bướm bay lượn trong tự do (có khi quá đà), thì tôi có cảm
giác Văn Cao như con chim cô đơn, tàn tạ trong chiếc lồng chật chội. Ước gì
thời gian đó, ông biết được rằng ở một miền đất nước cách chia có người vẫn
nghĩ, vẫn nhớ rất nhiều đến ông, đến một người đã có cái nhìn vô cùng trang
trọng với tình yêu đôi lứa.
“Nhà tôi sao vẫn còn ngơ
ngác
Em vắng tôi một lần”
Trong ngôi nhà tình yêu, chỉ vắng nhau một
lần, đã trở nên hoang vắng, buồn bã đến thế sao?
Văn Cao sáng tác không nhiều nhưng bài nào
cũng hay. Với riêng tôi, tôi vẫn thích nhất Cung Đàn Xưa.
“Hồn cầm phong sương, hình
dáng xuân tàn
Ngày dài mờ trôi, sầu lắng
cung đàn”
Điệu valse của Cung Đàn Xưa thật lạ kỳ.
Nhịp điệu rất sang , rất “Tây” ấy không gợi cho tôi nhớ đến những điệu valse
của Strauss mà lại đưa tôi vào không gian man mác buồn của Đường thi.
“Tạ từ Hoàng Hạc người đi
Tháng ba hoa khói xuôi về
Giang Châu
Cánh buồm lẻ bóng khuất mau
Dòng trường giang chảy về
đâu hỡi người” (*)
Cung Đàn Xưa ấy bao năm trời đành “tắt bao
thắm tươi” và chúng ta không còn nữa được nghe tiếng sáo “ai oán khúc ca cầm châu
rơi” của chàng “Trương Chi” tội nghiệp. .
“Cung thương lạc phím đàn
Cung Nam lạc phím người”
Thật đau đớn khi người nghệ sĩ phải tự giam
cầm trái tim chan chứa yêu thương của mình..
Một sáng tháng giêng năm 2000, ngồi bên một
quán nước nhìn ra dòng sông Saigon thấp thoáng sau những rặng trúc bên bờ Thanh
Đa, tôi bỗng nghe văng vẳng một điệu valse kỳ diệu như một dòng suối ngọt ngào.
“Rồi dặt dìu mùa xuân theo
én về
Mùa bình thường, mùa vui
nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến
đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà
đang gáy trưa bên sông…”
Người bạn ngồi bên nói cho tôi biết đó là
bài “Mùa Xuân Đầu Tiên” của Văn Cao. Bài hát như một tiếng khóc mừng khi đất
nước im tiếng súng.
Tại sao ông chỉ thầm vui được thấy một
“mùa bình thường” trong khi những người chung quanh ông đang hò reo một “mùa
xuân đại thắng”?
Có phải một chút bình thường như tiếng gà
gáy trưa, một chút khói bay trên sông, một trưa nắng vui, cũng là điều tâm hồn
dịu dàng của ông khao khát trong suốt bao nhiêu năm?
Lòng ngập tràn hy vọng, ông thật thà
trong niềm vui đoàn tụ:
“Từ đây người biết quê
người
Từ đây người biết thương
người
Từ đây người biết yêu
người”
Vậy mà theo lời người bạn, không dễ để
tiếng lòng chân thực của Văn Cao đến được với mọi người. Được sáng tác năm
1975, phải đến sáu năm sau bài hát mới được phép phổ biến.
Thật dịêu kỳ khi con chim ủ rũ, chết lặng
trong lồng suốt 20 năm, bỗng một ngày hồi sinh cất cao tiếng hót lảnh lót, tươi
vui đến như vậy. Tôi nghe như có những giọt nước mắt đang lăn xuống trên đôi gò
má nhăn nheo của tác giả.
Mùa Xuân đầu tiên được phép hát có lẽ là
hạnh phúc cuối đời của ông và ông sớm ra đi sau đó lại là điều may mắn.Bởi nếu
còn sống đến giờ này chắc chắn ông lại buồn bã, tuyệt vọng nhìn thấy điều mong
ước bình thường của ông dường như càng ngày càng trở nên quá cao, quá xa.
Sau khi im tiếng súng , người có nhận ra
quê người? người có yêu thương người?
Dầu sao tôi vẫn tin rằng âm
nhạc của Văn Cao sẽ mãi là dòng suối mát làm dịu hồn người dường như đang nóng
lên từng ngày theo nhiệt độ của trái đất.
“Tơ đàn chùng cùng với
tháng năm
Rừng còn nhắc tới người
Trong chiều nào giữa chốn
đây
Hồn cầm lắng tiếng đời”.
Huyền Chiêu
(*)
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc
lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận.
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận.
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Thơ Lý Bạch
(Người viết dịch)
No comments:
Post a Comment