Sunday, April 19, 2015

ĐI TÌM NGƯỜI YÊU



Nguyễn Thị Minh Ngọc


Nguyễn Thị Minh Ngọc

Ngọc của Sài Gòn

1.
Bây giờ càng dấn sâu vào bối cảnh “Sàigòn 300 năm” để kiếm ra từ đó những gì cần nói với hôm nay, tôi càng cảm thấy mình làm công việc này chẳng phải vì những lời kêu gọi vận động sáng tác nữa, mà là mình viết cho mình. Điều này gây cho tôi cảm giác lạnh lưng và biết sợ... Gặp một số văn, thi, nhạc, họa, nghệ... sĩ, tôi hỏi giữa hai đứa nói thật đi, những sáng tạo của bạn từ ai, và vì ai? Câu trả lời 100% tôi nhận được là: “Tôi làm những việc này cho chính tôi!”.
Một họa sĩ, vừa đi Paris với tôi về thì thêm: “Dĩ nhiên, sau mỗi chuyến đi, mở rộng tầm mắt, tôi không chối cãi được là có nhiều điều đã thẩm thấu qua tâm hồn tôi, và hắt trả ít nhiều trong tác phẩm”. Một đạo diễn có tác phẩm bị cấm (đây là loại người cho tời nay vẫn ngơ ngác không hiểu tại sao lại sửa tới sửa lui cái tác phẩm như một tấm lòng thành của mình) cho biết rằng: “Trong tôi dường như lúc nào cũng có một nhu cầu bức bách cần chia xẻ với những người dân thất thế bất hạnh chung quanh và sáng tác của tôi dường như có bị ám ảnh bởi nhu cầu ấy...

2
Câu hỏi này càng gay go hơn cho những người hoạt động trong lãnh vực sân khấu và điện ảnh, mà yếu tố khán giả vô cùng quan trọng. Nhiều người khư khư tôi làm tất cả vì tôi, nhiều người nhún vai tỏ ý bất lực, nhiều người im lặng thở dài. Có người mạnh bạo hơn: Mỗi đợt tham gia hội diễn, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao người ta lại có thể “hèn” đều đến như thế, dường như họ không phải sáng tạo cho chính họ nữa mà đang phấn đấu cho một nền văn hóa văn nghệ lấy ‘Ban Giám khảo’ làm gốc...”.
Một nhà văn đứng tuổi, có chỗ đứng khá quan trọng trong văn giới, lắc đầu: “Không với sân khấu nữa vì không như đọc giả, khán giả của sân khấu thì ‘dã man, sát thủ’ tức thì”. Ông đã từng len lõi ngồi lẫn vào khán giả để trực tiếp đón nhận thái độ phủ phàng không chấp nhận vở kịch ông viết của họ. Và có lẽ đó là vở kịch độc nhất của đời ông.
Có những phim Việt-Nam tốn kém hàng tỉ đồng, hôm chiếu ra mắt với một công chúng miễn phí, cũng bị họ tỏ thái độ bằng cách rút lui từ từ để đến khi đèn sáng chỉ còn vài nhúm khán giả. Dù không bị mất tiền họ vẫn tiếc điều họ đã đang bị đánh cắp: thì giờ... Nhiều đoàn nghệ thuật xập xệ, đi diễn ở những vùng xa chỉ với giá rẽ mạt nhưng họ đã không cấm được nhiều khán giả trách chê: “Biết vầy để mấy đồng đó mua bịch muối ăn cả năm còn có lý hơn nhiều.

3
Khi trả lời những câu hỏi đó, có thể các bạn tôi đã không nói dối, nhưng có vẻ như họ đã nói lên ước muốn của mình hơn là cái hiện tại đang có. Nhiều nghệ sĩ cải lương khi được xem một tác phẩm “sạch sẽ” với một công chúng tương đối lý tưởng đã nói rất thật lòng (nhưng hình như chị thật lòng được trong giây phút đó): “Ôi! được diễn trong môi trường này, chết cũng thỏa. Tiền chẳng là cái đinh gì đối với chúng tôi!”. - Bởi vì, thử đôi lần nhập cuộc với nhau, có đêm thất thu, xin bớt chút đỉnh thù lao là mặt lạnh như tiền. không bớt được đâu mấy đứa à, còn đợt diễn sắp tới chắc kẹt về quê giỗ chạp...
Một đạo diễn sân khấu học vị cao, đã có nhiều tác phẩm có giá trị, cho hay trong bối cảnh nhiễu nhương hậu bao cấp, tiền cơ chế thị trường của sân khấu, ông đã chọn thái độ nói không với mọi lời mời mọc, yêu cầu ông phải bớt phần nghệ thuật nghiêm túc đi để vở diễn có công chúng rộng rãi hơn. Một đạo diễn sân khấu có nhiều tác phẩm đàng hoàng khác cũng truyền một kinh nghiệm máu xương thời ông ta còn trẻ: “Hiếm có một kịch bản Việt Nam nào có thể cầm lấy làm ngay. Nếu cảm được hạt nhân xúc cảm của vở và nhắm nó trên trung bình một chút thì hãy đổ máu trút xương vào mà sửa...”.
Nhưng chúng tôi, những người làm nghề không còn trẻ nữa, cũng nhắc với nhau, từ đây đến cuối đời, liệu còn cầm được bao nhiêu vở trung bình khá trong tay để chúng tôi có thể trút hết máu xương...

4
Trong những lần tiếp xúc với độc giả, khán giả, chúng tôi du bị chất vấn: “Sao chương trình sân khấu của cơ quan X tệ vậy?” - “Sao kịch bản ông T. hay ghê lại chẳng thấy ai làm?”. - “Sao chẳng thấy vở kịch Việt Nam nào coi được từ khi ông V. mất?”.
Làm sao nói cho người ngoài hiểu đây, nếu những điều đó khiến độc giả, khán giả của chúng tôi buồn một thì chúng tôi, những người trong cuộc đau đến gấp mười... Ai cũng biết, cho đến giờ, vẫn không dễ gì mua được vé xem vở “Dạ cổ hoài lang”. Hiện tượng này lẽ ra khuyến khích được nhiều kịch tác gia thì lại khiến họ chùng tay, bởi sau khi tổng hợp các phân tích, anh em được yêu cầu phải sáng tác bằng hoặc hơn một tác phẩm đã đạt đỉnh cao của ba mặt: “Nghệ thuật để chinh phục khán giả, doanh thu để yên tâm tái sản xuất và bù đắp thêm cho những tiết mục kém hơn và cuối cùng, phản ánh đúng đường lối, chủ trương chính sách để các cấp lãnh đạo đều nhất trí ủng hộ hoan nghênh...”.
Tiếc rằng đa số các người viết kịch sau đó đều nhận ra mình đức mỏng, tài hèn... phấn đấu tối đa cũng chỉ đạt được hai trong ba yêu cầu đó; nên lòng tự trọng đã khiến họ cất giữ tác phẩm của mình trong ngăn kéo hoặc đi bán đổ bán tháo ở những chỗ vừa bán thuận mua để độ nhật mưu sinh.

5.
Nếu ví người nghệ sĩ sáng tác như “chàng tuổi trẻ gan dạ trên BA chiếc đu bay” như vậy thì trong lúc nôn nả tìm cách đưa tác phẩm ra công chúng, nhiều người trong chúng tôi ưa quên rằng dưới ba chiếc đu quay ấy không có lưới an toàn. Nhiều đạo diễn cho rằng loại kịch tôi viết rất khó bán vé và khó được lòng nhiều người nhưng thôi, lối nhỏ, tuy không an toàn, vẫn là lối của ta. Tôi lại nghĩ khác, cứ làm hết sức mình, khán giả sẽ không bỏ ta và lãnh đạo nào nỡ dẹp đi một tác phẩm không vi phạm luật pháp, lại được công chúng đồng tình.
Thực tế thì không vậy. Không phải tôi mà bạn bè tôi. Vở đang ăn khách lại phải bị ngưng. Khi nghe thắc mắc tại sao cũng kịch bản đó, tác giả đó, diễn viên đó mà địa phương khác vẫn sản xuất băng vidéo phát hành toàn quốc, chúng tôi được  một vị quản lý văn hóa hắt trả “Bộ thấy người ta đi ăn cướp, làm đĩ rồi bắt chước theo sao?”. - “Có những vở ông khen tràn cung mây thì chúng tôi, những người làm nó lại vô cùng xấu hổ (nhưng không hoang mang). Có khi ông nói giọng tâm sự: “Mai mốt anh nghĩ hưu rồi tụi em mới thấy thiệt thòi và nghĩ lại thương anh. Hiếm có người liêm khiết, trấn thanh long đao nơi cửa ải mà không để lọt lưới bọn “diễn tiến hòa bình” trong sân khấu chúng ta!”. Mỗi lần gặp ông tôi cứ nhớ câu chuyện về một vị linh mục cứ hùng hục làm những chuyện phản đạo mà cứ ngỡ mình đang bảo vệ đạo. Khi ông quỳ xuống tượng chúa kể công, trong câu chuyện hài hước ấy, chúa nói rất tiếc là chân ta đã bị đóng đinh, không thì ta sẽ đá cho con không còn ở làng này mà phá đạo”.

6
Nếu không có gì thay đổi, bạn tôi, Geoff Gillham, đạo diễn và tác giả người Anh sau hai năm ròng rã thủ tục giấy tờ, sẽ đến Việt Nam để dựng và diễn vở “Bone Cage”. Tôi đã được xem vở này trong đợt hội thảo về “Sân khấu giáo dục cho thiếu nhi”. Một cô bé bị nhốt trong chiếc lồng để làm những trò vặt, mưu sinh... Cuối cùng, khi cánh cửa được mở rộng rồi, như sống đã quen, cô không có nhu cầu bước ra ngoài lồng sắt nữa... Geoff sống du mục như một nhà hoạt động sân khấu tình nguyện, khi Jordani, khi Kenya, đã từng ở trong những nhà hát lớn và đã từng bỏ hết mà đi... Geoff kêu đã chán rồi những “Miss Sàigòn”, những “Con ma nhà hát Opera” và cả những Shakespear hoành tráng, mỹ lệ... Anh chỉ muốn làm sân khấu cho những người chân đất, không có tiền đến những nhà hát sang trọng mà xem, dù anh biết, anh sẽ rất dễ dàng xin được tiền của Hội đồng Anh nếu anh chọn những đề tài màø Hội đồng Anh ưa chuộng.

7.
Đợt đó, Geoff mời miền Nam sang 5 người. Tôi chuẩn bị vở “Người lãng mạn cuối cùng” kể chuyện một nhà hát rệu rã, đến giờ đi phục vụ chỉ còn năm người nên chuẩn bị làm một trích đoạn năm ngưởi. Bất trắc lại đến 5 còn 4, còn 3, rồi còn 2, còn 1... Cái người còn sót lại ấy vẫn cố diễn những trích đoạn một mình vì không nỡ phụ lòng mong đợi của những khán giả của một vùng sâu đang mõi mòn trông đợi.
Giờ chót, Geoff báo chỉ xin được đủ tiền cho một người. Tôi đành phải chuyển tập mấy tiết mục rối que, dây, kết hợp rối người như anh Văn Hợp vẫn làm. Và đem theo một số băng hình ca nhạc cổ tích cho thiếu nhi. Trong đó có vở “Những đứa trẻ lạc loài” của tôi mà Hoa Hạ đạo diễn và đài truyền hình vẫn phát trong những ngày 1/6. Xem đến đoạn cô giáo và anh công an khu vực cùng góp tay lo lớp học tình thương cho lũ trẻ bụi, một bạn người Việt đã tỏ ý không tin chi tiết này có thật. Thật ra trong nguyên tắc, tôi đã không nhấn mạnh điểm này nhưng phải sống trong những ngóc ngách Sàigòn mới thấy tinh thần từ thiện của thành phố này khá cao với số lượng thầy cô tự nguyện chăm lo cho lớp học tình thương như vậy đã nhiều ngoài sức tưởng tượng của những người sống ở những địa phương khác.

8.
Lại nhớ chuyện tôi đưa học sinh mình đi diễn ở những điểm đóng quân của Thanh niên Xung phong, đốt đuốc lồ ồ hay pha đèn xe hơi đề có ánh sáng, vạt giường cài hoa phong lan làm tạm cánh gà... Bài ký của tôi chỉ phác vài nét nhỏ về những chuyến đi lãng mạn ấy. Báo Tuổi Trẻ đã đăng cách đây hơn mười năm nhưng báo một địa phương khác thì đã không đăng với lý do rằng tôi đã tưởng tượng ra điều không có trong sự thật.
Như thế, người yêu của chúng tôi đâu? Cái sự thật nào phải bóp méo đi để tác phẩm được ra đời? Và cái giả nào cần tô vẽ để chìu lòng ai đó, không phải ta... Và khi đó, có còn nữa không, cái gọi là phẩm tiết của người nghệ sĩ? Khi những người rao giảng, chưng bằng “tiết hạnh khả phong” lại chính là những người đạp lên phẩm hạnh chính mình và người khác.

9.
Bước chân ra ngoài, ai cũng có vẻ ghen tỵ với những chất liệu sống ngồn ngộn mà chỉ những người Việt Nam, bấu chân, luồn rễ vào đất nước này mới chiêm nghiệm được. Còn mình lại so bì sự thoải mái sáng tạo của những bạn cùng nghế! Ai may mắn hơn ai? Tôi chỉ biết mình đã hạnh phúc biết bao trong những giây phút được chia xẻ với những đọc giả, khán giả sống cùng thời với mình dù trong hay ngoài nước.
Và dù cũng đã lắm lúc trơ lì mặt đá khi ở trong nước bị dán tem “có sạn trong đầu, không chính chuyên lắm về chính trị” và khi ra khỏi nước thì bạn cũ khước từ, nhắn với “Xin đừng đến nhà tôi, đồ Việt cộng con!”

10.
Và như thế: “Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Đến để làm gì? Và khi xong tất cả mọi chuyện thì tôi sẽ về đâu?”.
Viết, diễn hay dựng, dạy chi rồi cũng để cho tôi tìm cách tự trả lời những câu hỏi ấy. Đó cũng là nội dung một bài học tôi đã được học cách đây đâu cũng 25 năm.
Bây giờ, nói với những người bằng tuổi tôi lúc ấy, biết đâu họ sẽ nói: “Chuyện xưa quá rồi, Diễm ơi” hay “Quên đi, bà ngoại!”. Thì đây cũng như chúng tôi xưa, cứ “sức mấy mà buồn, bỏ đi Tám!”.
Nhưng bây giờ sắp là mùa Xuân mà, tôi có buồn không, trên con đường tìm hoài không gặp?.
Và phải chăng, Tám đó chính là tôi!..

NTMN
(trích Ngọc Của Sài Gòn)

No comments:

Post a Comment