Ngô Thế Vinh
Chân dung Dương Nghiễm Mậu
đinhcường
“… Kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên…
Những lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần
nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại vị
hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn
con đường ở ẩn, không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc
Ký.” Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu, 2005.
1975_ Bùi Giáng và Dương Nghiễm Mậu
Sau 30
tháng 4, 1975 các văn nghệ sĩ không đi thoát, hoặc chọn ở lại như Dương Nghiễm
Mậu, nếu không phải đám nằm vùng thì ai cũng chờ cái ngày đi vào nhà giam, các
trại tù cải tạo. Giữa những ngày căng thẳng
và ảm đạm ấy, có một người vẫn nhởn nhơ, đi tìm thăm bạn bè văn nghệ cũ. Không
ai khác hơn đó là nhà thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn. Trung niên thi sĩ lúc nào cũng
gầy và già hơn tuổi, râu tóc xơ xác như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt,
không biết anh đã lượm ở đâu trên đường mà có được bộ quân phục nguỵ với quân
hàm Đại tá, Bùi Giáng đem vận ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao
như diễn binh trên hè phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc
chiến tranh Việt Nam, với một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn
toàn rã ngũ. Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba Chuông, nơi có căn nhà
Dương Nghiễm Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm chật chội ấy đã thấp
thoáng màu cờ đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập cửa rầm rầm đòi vào
thăm cho được cố tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà trước tình huống ấy
cũng vẫn như gái ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm còn là thân quen, mạng
lưới công an chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra khỏi nhà Dương Nghiễm Mậu,
không biết Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai khác, hay anh lại ra nơi đầu
cầu Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng làm cảnh sát công lộ chỉ đường
“trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch sử” và để rồi sau đó nếu anh không bị đám
“cách mạng 30” hay bọn công an đánh tả tơi sưng mặt mũi thì rồi cuối cùng chắc
anh cũng lại tìm về với “mẫu hậu” Kim Cương, ngồi trước cửa phóng bút làm thơ tặng
nàng.
đi qua nhịp cầu Tràng Tìền bị giựt
sập trong Tết Mậu Thân,
Huế 1968 [photo by Đinh Cường]
Tuần lễ trước
30 tháng 4, 1975, nhân viên Đài Mẹ Việt Nam và những cây viết cộng tác đã được
Mỹ lên kế hoạch di tản khỏi Việt Nam – để tránh bị trả thù. Trước ngày lên tàu
ra đảo Phú Quốc, nhà văn Võ Phiến tới thăm toà soạn Bách Khoa, nơi vùng “xôi đậu”
có Võ Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh ngồi chung với Vũ Hạnh Bút Máu; cũng là nơi mà Võ
Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi thọ của tờ báo. Anh Lê Ngộ Châu chủ
nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải
đi, nhưng linh cảm không có ngày về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ
không nói nổi lời giã từ và rồi đứng dậy bước ra khỏi tòa soạn.
từ phải: chủ nhiệm Lê Ngộ Châu
(2006), Vũ Hạnh, Nguyễn Hiến Lê (1984),
Vi Huyền Đắc (1976), Lê Phương
Chi, Võ Phiến [nguồn: internet]
Trước một
ngày mất Sài Gòn, thì hầu như toàn bộ nhân viên Đài Mẹ Việt Nam trong đó có gia
đình Võ Phiến Giã Từ, Lê Tất Điều Phá Núi, Viên Linh Hoá Thân, Tuý Hồng Tôi
Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài từ Phú Quốc đã được đưa lên
con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi. Khi bờ biển Phú Quốc xa mờ trong tầm
mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến khóc. Cùng với những con tàu thuộc Đệ
Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông trong cuộc hải trình nhiều ngày để tới
đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất phát của các đoàn phi cơ B52 trong cuộc
chiến tranh Việt Nam với những trận mưa bom trải thảm/ carpet bombing có sức
tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo Guam chỉ rộng 550 km2 sau tháng Tư 1975, là
chặng dừng chân đầu tiên của hàng trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi vào đất
Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn Khách Thứ 10, Mặc
Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng đi thoát và trước sau đặt chân tới các trại
tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa đến một
tuần lễ sau, ngày 5 tháng 5, 1975 một trong những cây viết lâu năm của Bách
Khoa, Phạm Việt Châu Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết tại tư gia khi
cộng sản hoàn toàn chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một tác giả
có viễn kiến về lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi
43, đã như một hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang thương diễn ra sau đó.
1975_ Chiến Dịch Đốt Sách
Những ngày
sau 30 tháng 4, 1975, hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ,
tới toà báo Bách Khoa cũng là nơi cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu. Trước khách lạ,
đứa con gái nói giọng hãnh tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích
tới sáng.” Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng đêm đó có thể bị
tụi nó coi là nguỵ. Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” này chỉ như
phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên. Cũng chính những
đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng và diệt tàn dư
văn hoá Mỹ Nguỵ, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng sách rồi
tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề đọc, trong
đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những “tên biệt kích văn nghệ”
còn được trưng bày trong toà nhà triển lãm Tội ác Mỹ Nguỵ cùng với vũ khí chiến
tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm Mậu, có cả cuốn Vòng Đai
Xanh của người viết.
Cảm khái với
câu thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí: văn
chương vô mệnh cũng tro than/ văn chương vô mệnh luỵ phần dư. Hơn hai ngàn
năm sau, chẳng ai quên chuyện “đốt sách chôn nho/ phần thư, khanh nho” của Tần
Thuỷ Hoàng, nhưng không biết chỉ 100 năm tới đây, các thế hệ tương lai có ai
còn giữ được“bộ nhớ” Đã Có Một Thời Như Thế – tên một bài viết của Nhật Tiến, về
giai đoạn người Cộng sản Việt Nam đốt sách giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của
Miền Nam?
sau 30-04-1975 với những vụ “đốt
sách” [nguồn: internet]
1975_ Nhà hàng Givral và Phạm Xuân Ẩn
Trước
1975, La Pagode, Brodard, Givral là nơi tôi, Phạm Đình Vy [chủ nhiệm Tình
Thương] và các bạn y khoa thỉnh thoảng có dịp lui tới kể cả khi đã ra trường.
Givral cũng là nơi thường gặp gỡ các nhà báo như Phạm Xuân Ẩn, Cao Giao, Nguyễn
Tú, Như Phong Lê Văn Tiến… Phạm Xuân Ẩn, là bạn đồng môn với nhà văn Sơn Nam thời
trung học Cần Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng chân quê mộc mạc. Trong suốt cuộc chiến
tranh Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của Reuters, sau
đó chuyển sang tuần báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên kia đường.
Cũng không thể không nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc hội cũ, nơi
tập trung đông đảo nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các hãng thông tấn
và truyền hình Mỹ như ABC, NBC, CBS… Cũng chính Morley Safer trong một buổi
phát hình CBS Evening News ngày 5 tháng 8, 1965 chiếu cảnh lính Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ trong cuộc hành quân xua dân ra khỏi làng và sau đó bật quẹt Zippo đốt
nhà của họ, những hình ấy đã làm rúng động Toà Nhà Trắng và cả nước Mỹ như một
vết hằn sâu của một cuộc chiến bắt đầu thất nhân tâm. Bảy năm sau, Nick Ut
phóng viên AP với bức hình “Napalm Girl” chụp trong trận giao tranh Trảng Bàng
Tây Ninh ngày 8 tháng 6, 1972, cũng là thời điểm Quốc Hội Mỹ dứt khoát cắt viện
trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội quân
báo chí hùng hậu ấy, trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, có khả năng điều kiện
hóa dư luận với “những tin tức xấu từ một phía”, đủ làm nản lòng dân Mỹ, cùng với
đám GI’s đang cầm súng từ phía bên kia nửa vòng trái đất; truyền thông Mỹ có phần
công lao không nhỏ gián tiếp đưa tới mất Miền Nam Tự Do và cũng là một thất trận
đầu tiên trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ. Và rồi, tất cả bọn họ
cũng đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Và rồi mấy
ngày đầu tháng 5, 1975, Givral lại như điểm hẹn của những người bạn còn kẹt lại,
tới đó để biết ai ở ai đi và nghe ngóng tin tức. Từ những chiếc bàn nhìn qua
khung kính trong suốt ấy, tình cờ gặp lại Phạm Xuân Ẩn. Ẩn cũng đã từng tới
thăm toà soạn báo sinh viên Y khoa Tình Thương trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm
ngày nào. Vợ con Phạm Xuân Ẩn đã được tuần báo Times cho di tản trước đó nhiều
hôm, nhưng Ẩn thì ở lại. Với hơi chút ngạc nhiên và vẻ quan tâm, Ẩn hỏi tôi:
“Vinh, tại sao toa không đi?” Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng phải
sau này, khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ lẽ
được câu hỏi ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng tù đầy
từ một chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo làm cho
tuần báo Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm Xuân Ẩn là
một điệp viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng chính Phạm
Xuân Ẩn tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của CBS rằng khi Sài
Gòn sụp đổ không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo súng AK lúc đó rằng,
tôi là đại tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể tôi bị tụi nó giết và cả
con chó của tôi cũng bị nướng sống. [Flashback, Vietnam Revisited 1989, The Spy
in Winter]
Từ trái: Cao Giao Newsweek, Phạm Xuân Ẩn Times, Robert
Shaplen New Yorker, Nguyễn Hữu Vượng Newsweek, Nguyễn Tú Chính Luận, [photo by
Richard Avedon, Continental Hotel Saigon April 17, 1971; “The Spy Who Loved
Us”, Thomas A. Bass]
Robert Shaplen New Yorker, Nguyễn
Hữu Vượng Newsweek,
Nguyễn Tú Chính Luận, [photo by
Richard Avedon, Continental Hotel
Saigon April 17, 1971; “The Spy
Who Loved Us”, Thomas A. Bass]
1975_ Nhà báo Như Phong
Chỉ sau cụ
Hoàng Văn Chí Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản sau này
không ai hơn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút hiệu khác của
Như Phong Khói Sóng trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về cộng sản Miền Bắc.
Hiểu cộng sản như vậy, với biết trước những tháng năm tù đầy, vậy mà anh vẫn chọn
ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai Văn Lễ, trước bệnh viện Sùng Chính trên
đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có một thời làm Khoa trưởng Luật khoa Huế
thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ còn lại mình anh, chị và hai con thì đã
đi trước đó một tuần lễ.
Trưa ngày 30
tháng Tư, ngay sau khi lệnh đầu hàng được phát đi, có thể thấy từ mấy tầng lầu
cao là một cơn mưa confetti, chỉ một màu trắng của những mảnh vụn giấy tờ tuỳ
thân của quân cán chính cần được xé huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm soát
Sài Gòn. Không kể những giày nón quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi trên
đường phố. Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán đúng những gì sắp
diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ khẩu và rồi những
cuộn giấy bạc sau đó trở thành giẻ rách và rồi sẽ là quần đảo ngục tù / Gulag
Archipelago một tên sách của Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô đi mua
vàng, đôla chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì chỉ gợi
ý mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống như ngoài Bắc, sau
này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Nói vậy thôi chứ thái độ của cả
mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Và rồi vang
lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt nhựa, nhìn qua khung cửa là những chiếc tăng
T54 treo cờ giải phóng hối hả chạy về phía trung tâm Sài Gòn.
…
1980_ Cũng đừng tới thăm
Ra tù ba
năm sau, trở về một Sài Gòn đã đổi khác. Nếu còn chút gì thân quen thì là mấy
người bạn, không nhiều còn ở lại. Anh ấy là một trong những cố tri đầu tiên tôi
nghĩ tới thăm. Là giáo sư đại học, anh tốt nghiệp ở Mỹ, trở về Việt Nam từ cuối
thập niên 1960, đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội – theo
anh công bằng xã hội/ social justice phải là giải pháp rốt ráo cho một cuộc chiến
tranh bế tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền Bắc Nam. Tôi cũng đã từng gặp
anh ở Mỹ và cả những năm sau này ở Việt Nam. Sự sụp đổ mau chóng của Miền Nam với
anh là cả một “giấc mộng lỡ”. Tuy không phải chịu những năm tháng tù đầy, nhưng
cuộc sống gia đình anh, cũng như cả Miền Nam rõ ràng là khó khăn. Từng bước,
anh đã bán những bộ tự điển quý lúc đó rất có giá, cho đám học giả đói sách từ
Bắc vào mua; tiếp đến là đồ đạc tranh tượng, cuối cùng còn lại là một tủ sách
khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem từ Mỹ về thì nay trở thành vô giá – no value,
chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son để làm bột giấy. Vợ anh là cô giáo cũng phải
ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm sống. Anh thì quá nhậy cảm để thấy nỗi đau
và nhục.
Gặp lại anh, vẫn nét mặt trí thức và đôn hậu
như ngày nào, nhưng trong ánh mắt thì lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng
nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng nhìn ra cửa : “Biết toa được ra
trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới thăm”. Sự thẳng thắn rất trực tiếp của
anh, thoáng như một gáo nước lạnh, nhưng tôi cảm thông và vẫn rất thương anh.
Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục bảo lãnh, nghĩ rằng việc có liên hệ với
lính ngụy với tù cải tạo có thể là cản trở cho cuộc hành trình hy vọng của gia
đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh phản ứng theo hoàn cảnh, không chút phán đoán
tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng, và mai mốt đây nếu có ngày gặp lại anh thì
chắc chắn phải là trên một lục địa khác. Rất sớm trên toàn Miền Nam đã bắt đầu
có một mạng lưới tai mắt tổ dân phố và công an đủ để gây hoài nghi và cả sự sợ
hãi.
Ra khỏi nhà
anh, có lại được niềm vui ấm lòng khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề. Nghiêu Đề
cho biết mới gặp Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc nhiên thấy
Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại sao thì Sơn
cười giọng khinh mạn: “có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980_ Trần Phong Giao ngoài chợ
Trần Phong
Giao dáng vạm vỡ, da sậm có vẻ công nhân lao động ngoài nắng hơn là người làm việc
chữ nghĩa văn phòng. Nổi tiếng là thư ký toà soạn báo Văn trong 8 năm từ 1963 tới
1971, một tờ báo có vị trí đặc biệt trong sinh hoạt văn học Miền Nam với phát
hiện những cây bút mới và không ít sau này đã trở thành những tên tuổi. Sau
Văn, anh thử làm nhiều công việc khác cũng trong lãnh vực báo chí, xuất bản, rồi
thủ thư nhưng đã không để lại nhiều dấu ấn như ở Văn. Không lâu sau 30 tháng 4, cả hai anh chị đã
phải chạy chợ kiếm sống với chiếc xe ba bánh, đậu trên đường Lê Thánh Tôn đứng
bán từng bó củi, mấy nải chuối hay những bó rau tươi để nuôi đàn con. Ngày ra
tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần Cầu Kiệu, bên Tân Định, anh gầy sút
đi nhiều hai chân đã rất yếu. Gia tài của anh đáng giá vỏn vẹn còn một tủ sách,
quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da, một sự nghiệp của Trần Phong Giao
nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và phải đem bán cho một Việt kiều từ Mỹ về
để có tiền chạy gạo và thuốc men. Trần Phong Giao mất trong sự túng quẫn và bạo
bệnh (2005), anh cũng bước qua được ngưỡng tuổi cổ lai hy.
1981_ Và những bữa cơm gia đình
Ngôi nhà
Nghiễm trong con hẻm với mặt tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc, áo
thun trắng, đôi mắt rất tinh anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn tuổi
của một người sinh năm 1936.
Tuy sống gần
khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp sống cơm
hàng cháo chợ, nhưng thường sau một ngày làm việc, thay vì về nhà tôi ghé nhà
Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm đũa với những bữa ăn đạm bạc
nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình. Trong tù, tôi và Nghiễm thì
đã quen với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng cũng là bữa tạm
no. Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi “mau ăn, chóng lớn”
thì khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng. Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi
ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có
thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc.
Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu đó
là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo
Trang vợ Nghiễm sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi chuyện
vui từ trường đem về gia đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên vẹn, nhưng đã
có chính sách bần cùng hóa kiểm soát từng bao tử của người dân qua khẩu phần và
sổ lương thực của họ.
1982_ Dương Nghiễm Mậu và một Thanh Tâm Tuyền khác
Đã gặp
Thanh Tâm Tuyền ở những ngày 30 tháng Tư 1975 nơi một căn nhà nhỏ bên Gia Định.
Vợ Tâm lúc đó cũng vừa sinh đứa con trai út trong cảnh tán loạn bệnh viện Nguyễn
Văn Học. “Một Chủ Nhật Khác” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của “một thời để yêu một
thời để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát hành. Ra tù 1982, gặp lại
Thanh Tâm Tuyền của Bếp Lửa, bằng tuổi Dương Nghiễm Mậu nhưng trông anh già hơn
nhiều, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt rét kinh niên. Khó có thể
tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua suốt bảy năm tù đầy ngày
nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí ấy ở các trại giam Miền Bắc.
Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa đâm xuyên đùi không giải phẫu thuốc
men nhưng anh vẫn sống sót, trong tù chống rét anh tập hút thuốc lào, không giấy
bút anh vẫn làm thơ qua trí nhớ nhưng là những bài thơ trở về với các thể thơ
truyền thống. Thơ ở Đâu Xa là tập thơ
cuối cùng làm trong tù TTT cho xuất bản ở bên Mỹ (1990).
Trong một
cuộc phỏng vấn rất hiếm năm 1993, Thanh Tâm Tuyền đã giải thích sự chuyển biến
trong thi ca của anh:“Làm thơ trong trại cải tạo, cũng là trở về với thi ca
truyền thống dân gian/ Faire de la
poésie dans un camp de redressement, c’est aussi retourner à la poésie de
tradition populaire.” [Thanh Tam Tuyen, la poésie entre la guerre et le camp;
par Le Huu Khoa, Publications de l’Université de Provence]
Trong chỗ rất
riêng tư, anh tâm sự: Thái Thanh bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau 1975.
Khi biết Thanh Tâm Tuyền vừa ra tù đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại những bài
thơ phổ nhạc của anh: Đêm màu hồng, Nửa hồn
thương đau, Lệ đá xanh… tuy ấm lòng gặp lại cố tri nhưng rồi anh đã không
còn nguyên vẹn cảm xúc để nghe lại những thanh âm ngày cũ. Anh đã nói không với
những người mới muốn gặp anh. Anh vẫn giữ thái độ đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự
khép kín ấy khiến Mai Thảo đôi khi cũng phản ứng giận lẫy.
Doãn Quốc Sỹ - Thanh Tâm Tuyền
trước Nhà Thờ Đức Bà - Sàigòn
1985
Rồi cũng
có một buổi gặp gỡ cuối 1982, từ nhà Nghiễm có Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và
tôi cùng đi bộ tới một quán cóc cũng trên đường Trương Minh Giảng nơi gần đường
xe lửa. Thức uống của Nghiễm bao giờ cũng là một chai bia. Nhắc tới Tô Thuỳ Yên
Trường Sa Hành thì vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng ai nhắc tới nỗi khổ hiện tại
mà câu chuyện lại xoay quanh những người bạn may may mắn ở phương xa. Những người
đi thoát trước 1975, vài tên tuổi được nhắc tới: Thanh Nam Tuý Hồng, Vũ Khắc
Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Viên Linh… Nhưng rồi tên Mai Thảo Bản
Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời vẫn như điểm hội tụ của những tin tức. Anh là nhà
văn duy nhất hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của cộng sản trong suốt hai năm sống
lẩn lút ở Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều mạng che chở cho anh. Trần Dạ Từ Tỏ
Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều nhà văn nhà báo thì đang trong tù, Nhã Ca Giải
Khăn Sô Cho Huế ra tù sớm phải cưu mang một đàn con nhỏ nhưng cũng chính mấy mẹ
con Nhã Ca đã bất chấp hệ luỵ cất giấu bác Mai Thảo trong nhà, một căn phố lầu
trên góc đường Tự Do, đây cũng là chặng ẩn náu cuối cùng của Mai Thảo cho đến
khi anh vượt biển rất sớm thoát được tới đảo Pulau Besar Mã Lai đầu tháng 12,
1977.
Hai năm sau
Mai Thảo 1979, phải kể tới chuyến đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền nhân
trong số đó có Nhật Tiến Người Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối, vợ chồng ký giả
Dương Phục Vũ Thanh Thuỷ… và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên biển rồi
trên đảo Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến đã ghi lại
những thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng khởi đầu
cho phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau lần gặp
gỡ nơi nhà Nghiễm, Thanh Tâm Tuyền chuẩn bị đi Mỹ theo diện HO, cho dù “tâm
thái” – chữ của TTT, vẫn gắn bó với một quê hương mà anh không muốn xa rời,
riêng tác giả Ba Sinh Hương Lửa lại vào tù tổng cộng 14 năm trước khi đi định
cư 1995 và gặp lại Mai Thảo ở Quận Cam.
Trên đường
đi, tôi không thể không có ý nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của
mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ
có oan nghiệt giam cầm huỷ hoại những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của
văn nghệ sĩ trong khoảng thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền
văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội
ác thiên thu ấy?
Tiểu sử: Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh năm
1936 tại Hà Đông, cùng năm sinh với Thanh Tâm Tuyền, Thảo Trường. Học tiểu học
trường Hàng Than, trung học Chu Văn An Hà Nội. Cùng học 2 trường ấy nhưng Nghiễm
hơn tôi 5 tuổi, có lẽ trên nhiều lớp nên không được biết anh. 1954 di cư vào
Nam. Từ 1957 viết nhiều tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài cho Sáng Tạo,
Thế Kỷ 20, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao Điểm, Chính Văn. Có một giai đoạn ngắn,
Nghiễm sinh hoạt nơi Đàm Trường Viễn Kiến của Nguyễn Đức Quỳnh Ai Có Qua Cầu. Từ
1962, làm tạp chí Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, anh của nhà thơ Quách Thoại. Tập
truyện ngắn đầu tay Cũng Đành, Văn Nghệ xuất bản năm 1963. Truyện dài Gia tài
Người Mẹ, giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1966. Nhập ngũ 1966 với cấp bậc hạ
sĩ đồng hoá, làm phóng viên chiến trường đến tháng 4/1975. Sau 1975 bị bắt, ra
tù 1977, sống bằng nghề sơn mài tại Sài Gòn.
kim phút kim giờ cùng rớt xuống
[photo by Trần Cao Lĩnh]
2006_ Những Cơn Mưa Sài Gòn
Từ một
khách sạn nhỏ gần đường Tự Do, để tới khu nhà thờ Ba Chuông, đi bộ thì quá xa,
taxi thì nạn kẹt xe, tôi chọn Honda ôm, nhưng đã không tránh khỏi thót tim vì mấy
tay lái xe quá liều mạng: chạy nhanh len lách, ngược dòng xe cộ, cắt cả lên vỉa
hè đông người đi bộ mà anh ta cho là an toàn hơn đi theo luật giao thông. Tuy
không có mẩu giấy địa chỉ trên tay, nhưng có trí nhớ tốt về hình ảnh /
photographic memory, tôi nghĩ vẫn có thể tìm ra nhà Dương Nghiễm Mậu vẫn trong
ngõ hẻm ấy cho dù đã nhiều năm không gặp. Nhà đã được xây lại, cất thêm một từng
lầu. Nghiễm nay là nghệ nhân sơn mài, chị Trang vợ Nghiễm thì vẫn dạy Anh văn ở
Marie Curie, hai con Nghiễm đã trưởng thành tốt nghiệp đại học và đi làm. Cả
gia đình đều làm việc cật lực để tạo được một cơ ngơi như hôm nay.
Khi Nhà Văn là Con Bệnh
Tháng 9,
2006 gặp lại Nghiễm sau bao năm, khi anh vừa bước vào ngưỡng tuổi cổ lai hy.
Thanh Tâm Tuyền vừa mất trước đó 6 tháng [03/2006]. Như Phong Khói Sóng mất đã
5 năm [12/2001], Mai Thảo Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền cũng mất trước đó 8
năm [01/1998], cùng năm với Nghiêu Đề Ngọn Tóc Trăm Năm [11/1998]. Họ là những
nghệ sĩ Việt Nam chọn tự do phải sống lưu vong và vùi thân ở một nơi không phải
quê nhà.
Nghiễm thì
vừa gặp nạn ở cái tuổi 70, khi đang đi bộ trên lề anh bị một xe gắn máy chắc
cũng lại xe ôm leo lên tông gẫy xương cổ chân, phải phẫu thuật bó bột gần 2 tuần
lễ rồi mà còn sưng đau, vẫn phải chống nạng. Nghiễm giỏi chịu đựng, không hề
than đau chính điều ấy khiến tôi quan tâm. Nghiễm cần được tái khám để có một ý
kiến thứ hai / second opinion. Tôi nghĩ tới một bạn đồng môn còn ở lại, chuyên
khoa chỉnh trực, giảng dạy ở Y khoa, bạn bè gọi anh là người có bàn tay vàng
trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình. Anh cũng có phòng mạch tư ngoài giờ và
tôi đề nghị đưa Nghiễm tới đó. Nghiễm thì lưỡng lự không muốn nhưng vì tình bạn
anh đã không thể nói không.
Không có địa
chỉ, nhưng biết phòng mạch Bs Võ Thành Phụng trên đường Lê Văn Duyệt, đối diện
với trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công cũ. Với một cổ chân bị gẫy còn rất sưng đau,
thì lên và xuống taxi lúc này không phải là dễ dàng đối với Nghiễm. Cơn mưa nhiệt
đới thì vẫn cứ tầm tã từ nhà cho tới khi Nghiễm bước chân được vào phía trong
phòng mạch. Gặp chị Võ Thành Phụng, khi biết người bệnh là nhà văn Dương Nghiễm
Mậu, thì tôi hầu như không còn vai trò gì nữa. Chị là độc giả lâu năm và rất
quen thuộc với các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, từ thời báo Văn, Văn Nghệ và
cả Sáng Tạo ngày nào, không kể những cuốn sách của Nghiễm mà chị đã đọc. Phòng
mạch đông khách, do sắp xếp của chị Phụng, Nghiễm là bệnh nhân mới được ưu tiên
khám trước. Anh Phụng cùng tôi đọc những tấm phim chỉ rõ xương cổ chân gẫy chưa
lành nhưng không nhiều di lệch nên không cần thêm phẫu thuật mà là điều trị bảo
tồn. Quá bận bịu với chuyên môn, anh Phụng có lẽ không là độc giả của Dương
Nghiễm Mậu như chị Phụng nhưng Nghiễm đương nhiên trở thành người bệnh đặc biệt
của phòng mạch anh chị hôm đó. Trời vẫn không ngớt mưa, trong taxi trên đường về,
tôi nói đùa với Nghiễm, trong cuộc đời viết văn, tôi chưa bao giờ có hạnh phúc
được gặp được một nữ độc giả tâm đắc và yêu văn chương đến như vậy. Rất ít bày
tỏ, như từ bao giờ Nghiễm chỉ đáp lại bằng một nụ cười hiền.
hai
tay tựa trên khung đi / walker [photo by Ngô Thế Vinh 09/ 2006]
2012_ Từ Hải Ngoại Truyện.
Trước
1975, đọc “Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc” trong Nhan Sắc để
thấy truyện Dương Nghiễm Mậu là những tình huống và thái độ lựa chọn, rất biểu
tượng và nhiều ẩn dụ. Nghiễm viết truyện xưa mà nói tới nay. Kinh Kha qua sông
Dịch, chàng lọt vào được cung điện, khi đã kề đoản đao vào cổ Tần Vương, nhưng
thay vì run sợ, thì Tần Vương lại ngửa mặt cười. Và Kinh Kha chợt hiểu ra tất cả:
giết bạo chúa này sẽ lại có một bạo chúa khác… Và hình ảnh Kinh Kha lầm lũi rời
khỏi cung điện vẫn là nỗi đau không cùng, như một dự báo oan khiên cho ngày hôm
nay.
Từ Hải Ngoại Truyện được Dương Nghiễm Mậu
viết khoảng 10 năm sau 1975, [Gia Định, 2005]. Từ Hải là nhân vật được Dương
Nghiễm Mậu khá nâng niu. Phí Ích Bành em Nghiễm, trao cho tôi một phong bì với
16 trang chữ có ít dòng thủ bút của Nghiễm. Đọc ngay những trang viết ấy để thấy
một Từ Hải Ngoại Truyện nửa anh hùng nửa thảo khấu, rất khác với nhân vật chính
truyện khi chọn con đường bổng lộc giam thân về chốn triều đình.
Một trích
đoạn về bối cảnh xã hội trong Từ Hải Ngoại
Truyện: “một hôm thầy Khổng ngồi xe đi trên đường thì thấy một bô lão bước
tới vái chào, thầy Khổng cho dừng xe lại, trong chốc lát cả một đám đông trẻ
con gầy còm nhếch nhác vây quanh. Ông lão nói: nghe thiên hạ nói thầy nhiều chữ
nên tới xin một ít. Khổng Tử liền mở cái hòm gỗ lấy ra một cuốn sách trao tận
tay cụ già. Cụ già cầm lấy ngắm nghía rồi lật những trang sách nhìn trên nhìn
dưới rồi gấp lại đứa trả thầy Khổng và nói: tôi không biết dùng cái này để làm
gì. Có tiếng cười khả ố vang lên từ một người trung niên ở trần, đóng khố: sách
chẳng có giá trị gì đối với những người không có cơm ăn và mù chữ. Ông hãy bước
chân xuống ruộng, đi cày trồng lúa rồi lấy thóc mà cho họ thì có ích hơn. Chuyện
chỉ kể tới đó không cho biết hành xử của thầy Khổng ra sao”.
Cũng trong
Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu
viết về giới quan lại khoa bảng: “Trong Sưu Tặc Ký những kẻ nổi lên làm giặc
thường xuất thân là dân thuyền chài, kẻ cầy ruộng, người chăn trâu, kẻ đốn củi;
tuyệt nhiên không thấy có kẻ nào đậu tiến sĩ, trạng nguyên. Không tên giặc nào
có làm thơ làm phú, hoặc từng làm quan, làm thầy giáo mà đi làm giặc. Ở những
sách khác có viết về kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên: khi
thì đòi chém tham quan ô lại, khi kêu ca sưu cao thuế nặng khiền dân đen chết
đói, khi kêu oan cho lương dân bị chết chém… Những lá sớ lâm ly thảm thiết này
thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ
trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của triều đình.
Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn, không chọn
con đường làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký.”
Dương Nghiễm
Mậu viết những dòng cuối: “Từ những trang sách tới thực tế của chuyến đi làm ta
hoài nghi những ghi chép của người xưa… nhiều sách truyện đã để cho Từ Hải chết
đứng giữa trận tiền. Một anh hùng phải có cái chết anh hùng. Trong ngoại truyện
Từ Hải, cuối cùng Từ Hải đã chết nhưng chết một cách khác, không phải cách chết
đứng giữa trận tiền.”
Rồi từ chuyện
xưa mà hóa ra nay, Dương Nghiễm Mậu viết tiếp: “Nhiều sách tạo ra những anh
hùng như mô tả kẻ tự biến mình thành cây đuốc sống, lấy thân mình bịt họng súng
thần công, ôm bom lao vào quân giặc mà chết. Hầu hết những anh hùng trong sách
đó chẳng bao giờ người ta tìm ra tung tích.”
Tưởng cũng
nên nói thêm, căn nhà của gia đình Nghiễm không xa cây cầu Nguyễn Văn Trỗi trên
đường Công Lý thời chống Mỹ, rồi không thể không nhắc tới “cây đuốc sống” Lê
Văn Tám đốt kho xăng Thị Nghè 1945 thời chống Pháp: một nhân vật mà sau này Trần
Huy Liệu, bộ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào
những ngày cuối đời đã trối trăng lại với đám môn sinh: Lê Văn Tám chỉ là sản
phẩm của tuyên truyền và không có thật.
Ba mươi
hai năm sau 1975, qua liên lạc vận động của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, [cũng là
người giới thiệu Phạm Duy đến với Công ty Phương Nam], nhà xuất bản Phương Nam
đã tái bản 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út), và
truyện dài Nguyệt Đồng Xoài của Lê
Xuyên. Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một đao phủ đã không nương
tay viết bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội Công ty Phương Nam.
Vũ Hạnh viết:
“Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy
họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự
thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy.” Vũ
Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi
thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí
độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự
đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống
lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền
nào.” [Sài Gòn Giải Phóng, 22/4/2007].
Tưởng cũng
nên ghi nhận ở đây, trước 1975 đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ Miền Nam không thiếu
lòng nhân ái đã hơn một lần cùng vận động ký tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ Hạnh
cũng được Văn Bút Việt Nam che chở, và khi bị kết án tù thì chính linh mục
Thanh Lãng, Chủ tịch Văn Bút đứng ra bảo lãnh, để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công
khai ra ngoài họat động.
Sau 1975,
nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt,
Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn,
Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà
tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt
phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán thuốc
lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì phải đứng sạp
bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công nhân sản xuất mì
sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem
Dạo.
Nghiễm vốn
tâm lành, nếu có ai nhắc đến chuyện Vũ Hạnh thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao
dung, anh tin trên đời người tốt nhiều hơn kẻ xấu, kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ
cũng tự thấy sai. Nghiễm có lạc quan quá không vì đã hơn 40 năm chịu khổ ải do
họ gây ra, nay đã tới tuổi gần đất xa trời mà sao họ vẫn“chưa tự thấy sai” chưa
hề biết sám hối. Một người bạn rất quen biết Vũ Hạnh nhận định: sự hung hãn ấy
chỉ như tấm bình phong – một thứ raison d’être, biện minh cho sự hiện hữu của
Vũ Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày Xưa
Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như một
nhà văn [Lý Đợi, talawas 10.5.2007] “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ
sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là
tiếng nói hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư
Viện Quốc Gia. Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy xuyển: “tác
giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh xấp
xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo
lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối
tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm
Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát [Thấy gì từ một luận
văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013].
Có lẽ tấn
thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng sản tha hoá bước vào Thế Kỷ 21
là sự “nguỵ tín/ mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ
võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng.
Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái
đi du học rồi trưởng thành sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một
con người tự do.
Trở lại với
Nghiễm, nhiều người vẫn nghĩ rằng, sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày, đi làm
sơn mài kiếm sống, Dương Nghiễm Mậu không còn viết gì. Điều này có lẽ không
đúng. Nghiễm không có sách mới xuất bản trong nước suốt 40 năm từ sau 1975.
Nhưng Dương Nghiễm Mậu như tôi biết, anh vẫn viết, trong đó có “Tự Truyện Nguyễn Du” như một tác phẩm lớn
mà tôi tin là anh vẫn bền bỉ hoàn tất từng trang sách.
tranh bút sắt của Nguyễn Trung, chuyển
thể sơn mài
của Dương Nghiễm Mậu [photo by
Phí Từ Việt]
2015_ Mưa California Mưa Sài Gòn
California vẫn khô hạn, nhưng thản hoặc cũng
có những cơn mưa đủ tầm tã để gợi nhớ những cơn mưa Sài Gòn, nhớ ngày tới thăm
bạn cũng vào một buổi chiều mưa như vậy, với những khúc đường xá thì ngập lụt.
Hạnh phúc ở
xa là có được một người bạn như Nghiễm, cho dù ở đâu và bao giờ có biến động ra
sao thì vẫn cứ là một Dương Nghiễm Mậu với Nhan Sắc ấy, nhất quán và xác tín
như thuở nào: có cái dũng để nói không.
Tôi nghĩ tới
Nghiễm, anh đã sống trong dòng chính sinh hoạt Văn Học Miền Nam, từ rất sớm cho
tới 1975, và 40 năm sau anh vẫn thăng trầm với vận nước ngay trên quê nhà. Anh
là một nhân chứng khả tín cho suốt thời kỳ ấy và điều anh viết ra được mọi người
tin.
Lời Cuối Cho Bài Viết
Dự định khởi
đầu là một bài viết về cố tri Dương Nghiễm Mậu, với cuộc hành trình 40 năm của
anh. Bài viết chỉ với hơn bảy ngàn chữ,
nhưng rồi không tránh được, như một flashback, có thêm những khúc phim
trắng đen ngắn của hồi tưởng rất chung và cả rất riêng tư, khá rời rạc đổ tràn
theo những trang viết.
Nhà văn Trần Hoài Thư đang ngồi
khâu Di Sản
nơi Thư Quán Bản Thảo [ảnh THT tự
chụp từ video với iPhone 5]
Vậy mà đã
40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ
là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang
thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về
với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải kể
tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có
một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ
nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
Trong quá
trình phục hồi di sản Văn Học Miền Nam, không thể không nhắc tới một tên tuổi:
Trần Hoài Thư – Thư Quán Bản Thảo, anh có hùng tâm và đơn độc trong suốt nhiều
năm nỗ lực khôi phục lại những văn bản của một thời kỳ văn học bị truy lùng và
huỷ diệt.
Không phải
là quá sớm để ghi lại một giai đoạn lịch sử trung thực, chứ không phải là
“phiên bản” nguỵ tạo mà người cộng sản đã và đang làm. Trước khi lịch sử bước
qua một trang khác.
NGÔ THẾ VINH
Sài Gòn 1975 – California 2015
No comments:
Post a Comment