truyện ngắn Nguyễn Âu Hồng
Timberline Hotel-
Nhiều
năm sau này, cứ mỗi lần nhìn tuyết rơi là Phú Nguyễn lại nhớ đến buổi sáng xa
xưa ấy khi anh cùng Mónica Tikal rời phòng khách sạn trên đỉnh Timberline, ra
hành lang đi xuống bậc thềm và sửng người vì một quang cảnh nguy nga tráng lệ,
choáng ngợp.
Lúc
ấy hai người dừng lại ở bậc thứ hai, Nguyễn đứng dựa vào thành tay vịn còn
Tikal thì áp sát vào người anh: lớp tuyết của đêm qua đã phủ lên những đồi
thông điệp trùng từ triền Mt Hood trải dài tít tắp đến tận lũng sâu của Government
Camp làm cho cảnh vật trở nên mới mẻ, với một màu trắng tinh khôi trong buổi sớm
mai. Trời xanh không một gợn mây. Đôi tình nhân
như đôi chim non chấp chới đôi
cánh muốn bay mà còn ngập ngừng, họ muốn đi qua khoảng sân, phiêu lưu một chút
qua phía bên kia trạm cáp treo, nhưng chưa đi mà chân đã muốn tê cóng vì ủng
lún sâu trong tuyết. Họ bước xuống hai bậc thềm nữa. Bắt đầu có mùi phấn thông
thoang thoảng trong gió. Phấn thông? Đây chỉ có thể là phấn thông từ triền thấp
phía sau khách sạn theo gió bay lên, vì Timberline là lằn ranh thảo mộc cuối
cùng, từ độ cao này trở lên sẽ chỉ toàn tuyết và băng giá. Còn mấy bậc thềm nữa
là xuống tới sân, khoảng sân đã được lớp tuyết mới phủ dày trinh nguyên. Lại bước
xuống hai bậc nữa, nhưng ngần ngại không muốn giẫm lên lớp tuyết trắng tinh khiết
chưa có dấu chân người. Vừa lúc ấy, mặt trời qua khỏi đỉnh Mt Hood và toàn cảnh
nguy nga tráng lệ bỗng bừng sáng, huy hoàng rực rỡ, kỳ vĩ lạ thường.
Đôi
tình nhân chỉ còn kịp ôm chầm lấy nhau.
Họ
là hàng xóm của nhau, có chung một hàng rào lưới B.40, nhưng gần nhà xa ngõ do
hai khu chung cư đấu lưng vào nhau. Rào giậu thường là sự ngăn cách, riêng hàng
rào này đã làm một nhiệm vụ ngược lại: sự nối kết. Gió thường thổi vật phơi của
người này bay qua sân của người kia rồi lượm đưa qua, đưa lại mà quen nhau. Mùa
hè, Phú Nguyễn đặt cái ghế mộc gần sát hàng rào, dưới bóng mát của cây cherry để
đóng những khay đựng thức ăn cho chim và làm những tổ chim để đi bỏ mối và bày bán garage sale. Cây cherry đại thụ trồng
bên đất khu Mónica Tikal nhưng bóng mát phủ qua phía Phú Nguyễn nhiều hơn. Khay
đựng thức ăn chỉ làm bằng ván ép, gỗ xẻ, nhưng tổ chim thì đa dạng: bằng gỗ xẻ,
ván ép, cành cây, bằng những cọng cỏ đan bện lại hoặc kết hợp. Riêng loại tổ
chim làm bằng khúc cây, thường là cây bạch dương poplar hoặc whitebirch thì
không kết hợp. Cắt một khúc cây vừa vặn một tổ chim, khoan một cái lỗ, chẻ đôi
ra khoét bọng rồi bôi keo ụp dán lại, xoắn cái móc treo lủng lẳng là ra một tổ
chim.
Mùa
cherry chín, Tikal mặc quần jean leo cây hái trái trong khi Nguyễn ngồi dưới
bóng mát của tàn cây cưa cưa đục đục. Đôi lúc, Nguyễn dừng tay nhìn lên cây,
nhìn Tikal chuyền cành thoăn thoắt, hái trái bỏ vào bịch cũng lẹ làng thoăn thoắt.
Với nước da bánh mật, mái tóc dài đen huyền buông từng lọn, dáng dấp và động
tác của Tikal có một vẻ gì đó vừa hồn nhiên vừa hoang dã. Anh hơi ngạc nhiên
sao với đôi mông đít ngạo nghễ dường ấy, với bộ ngực đồ sộ dường ấy mà Tikal lại
có thể leo trèo nhanh nhẹn và dám chuyền ra những cành nhỏ mà không sợ bị gãy
cành hay bị rơi té. Rồi khi Tikal chuyền tới mấy cành thấp gần chỗ anh ngồi,
đưa xuống cho anh một bịch cherry, cô cứ ngồi vắt vẻo vừa ăn cherry vừa nói
chuyện thì Nguyễn lại thích nhìn vào đôi mắt của cô. Đó là đôi mắt đặc trưng của
phụ nữ gốc Hispanic - đôi mắt đen to với đôi mày dài rậm, đôi hàng mi cong vút.
Tikal ngồi trên cành, Nguyễn đứng vịn cành, họ nói chuyện bâng quơ nhưng cả hai
đều muốn thăm dò ý tứ của nhau. Tuy tuổi tác có chênh lệch, Nguyễn đã bốn mươi hơn
còn Tikal mới ba mươi, nhưng những tín hiệu cho thấy “tình trong như đã mặt
ngoài còn e”.
Một
hôm Tikal chở về một mớ gỗ phế liệu 1x1, 2x2, 2x4, 4x4 dài ngắn không đều và khoảng
chục tấm ván ép cũ đủ mọi kích cỡ, nhờ Nguyễn đóng cho một cái tủ. Nguyễn nói
anh không phải là thợ mộc chuyên nghiệp. Tikal lại nói đóng cho một cái kệ hay
một cái thùng gì cũng được, cuối cùng lòi ra là cô muốn có một cái nhà kho bỏ
túi. Nguyễn đu cành cherry đạp rào nhảy qua xem xét mớ gỗ và nói có thể đóng một
cái nhà kho cao 7 ft rộng 5x7 ft.
Để
tiện việc, hai người hì hụi chuyển cái ghế mộc sang phía Tikal và phải mất trọn
ngày thứ bảy anh mới làm xong bộ khung nhà kho. Sang chủ nhật, Tikal đang giúp
Nguyễn dựng bộ khung lên thì bà quản lý khu chung cư xuất hiện. Ở chung cư đâu
có được phép đặt nhà kho dù chỉ là nhà kho bỏ túi. Lại phải mất công tháo bỏ.
Cũng may đây chỉ là số gỗ thừa ông chủ nhà dưỡng lão định đem đi đổ, Tikal tiếc
hỏi xin chứ không bỏ tiền mua. Nguyễn chọn được một ít còn bao nhiêu đem trả lại,
khỏi tốn tiền đổ rác. Tuy việc nhỏ không thành, nhưng việc lớn tức “chuyện
chúng mình” có dấu hiệu tiến triển. Tối chủ nhật đó Tikal nhận lời mời của Nguyễn
đi ăn nhà hàng Việt Nam rồi đi bar Mexico uống rượu.
Nước
Mỹ này quá rộng và quá buồn nên khi hai người nam nữ xa lạ quen thân nhau, họ
như bị hút vào nhau, một ly không rời.
Bên
Mónica Tikal, Phú Nguyễn đã dần dần tìm lại được bản thân mình. Anh sang Mỹ du
lịch rồi lưu lại bất hợp pháp. Mẹ anh mất khi anh đang sống chui nên không thể
về chịu tang. Từ sau khi mất mẹ, càng sống lâu ở Mỹ anh như càng mất dấu về
mình. Anh không giao du với ai. Không ai biết anh mà anh cũng chẳng biết ai.
Anh ăn uống một mình, đi về thui thủi một mình. Anh như không biết mình thuộc về
thời nào, nơi chốn nào, như sống lùi lại một thời gian nào xa xưa. Ở Mỹ mà Nguyễn
không có bằng lái xe, không có laptop, không có cả điện thoại. Thậm chí anh còn
ngỡ ngàng về tên họ của mình. (Anh làm công cho job cỏ của thằng cháu, nó không gọi anh bằng tên mà khi thì Chú,
khi thì Ê khi thì Hê cho tiện việc). Nguyễn cứ càng ngày càng xa lạ với chính họ tên của mình. Anh như
cái xác không hồn đang mất dần dấu vết và mất luôn sức sống. Trong những đêm
dài cô đơn, anh thấy mình không phải là một người đàn ông bốn mươi mốt tuổi mà
chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị thất lạc. Thậm chí anh còn chìm trong ý nghĩ, con
người trần trụi vô danh đến với cuộc đời thì rồi cũng vô danh trần trụi ra đi,
có gì đâu mà phải trăn trở. Cứ phai nhạt dần, cứ mất dấu dần rồi lặng lẽ tan biến…
Phú
Nguyễn không hề biết ý nghĩ ấy chính là sự buông xuôi, là chước cám dỗ của tuyệt
vọng.
Tikal đã giúp Phú Nguyễn từ trong đêm dài của
tuyệt vọng gượng đứng dậy, đi về phía có
ánh sáng, tìm lại dấu vết của mình, tìm lại chính mình. Đâu cần ai biết ta là
ai, chỉ cần biết ta đang thở, đang sống. Ta là một thực thể sống động, không phải
cái xác không hồn đi lại, ăn ngủ vật vờ. Bỏ nước ra đi để rồi sống vất va vất
vưởng thế này sao? Bao nhiêu triệu người Việt đã vùi thây trong bom đạn chiến
tranh, bao nhiêu triệu người Việt đã chết đói hoặc chết vì bệnh tật do nạn đói
gây ra và bao nhiêu triệu người Việt nữa đã vùi thây nơi rừng sâu núi thẳm hay
dưới đáy đại dương… mà ta sống, xem như một người được sống sót, sao ta lại
không dám sống cho ra sống, sống cho đáng sống, mà cứ vật vờ? Bỏ nước ra đi là
để tìm sự sống, đúng không? Sao ta không thử một lần ngửa mặt nhìn trời, nhìn
thật chăm chú vào những áng mây xa mà cứ nhìn xuống mũi giày của chính mình rồi
than thân trách phận?
Quen thân rồi chung sống với Nguyễn, Rital biết
rằng dân tộc Việt Nam của anh đã trải qua những nỗi thống khổ triền miên do chiến
tranh, nghèo đói, bệnh tật, đang vật vã tìm đường vươn lên. Nguyễn hay nói về
karma cộng nghiệp của người Việt, còn Tikal, cô không biết gì về dòng nghiệp,
nhưng với dòng cảm chân thành cô tin rằng rồi đây tất cả các dân tộc đều sẽ sống
hạnh phúc dưới ánh mặt trời. Cô yêu thương, chăm sóc Nguyễn như để bù đắp những
thiệt thòi mà anh đã phải gánh chịu.
Tikal
là người Mỹ gốc Mexico tức Hispanic hoặc Latina “Amiga”, nhưng ông nội nói họ
Tikal không phải là họ Mexico mà là một họ tộc hùng mạnh một thời của người
Maya cổ xưa. Họ tộc Tikal và họ tộc Calakmul đã thống trị nhiều bộ tộc chư hầu gây
chiến tranh tàn sát lẫn nhau, nhưng rồi đã biết đoàn kết để hiệp sức chống lại
người Tây Ban Nha. Họ đã chiến đấu bền bỉ
trên một trăm năm. Tuy nền văn minh Maya bị diệt vong nhưng hậu duệ của hai họ
tộc lẫy lừng Tikal và Calakmul vẫn còn mãi. Vậy con hãy tự hào mang họ Tikal và
đừng bao giờ quên cội nguồn Maya của minh. Hãy nhớ, người Maya không khuất phục
trước khó khăn và bạo lực, biết sống hiền hòa thân thiện với mọi người và hài
hòa thân thiện với thiên nhiên. Đó là lời của nội, các tài liệu mà Tikal truy cập
lại cho rằng người Maya là một dân tộc vô cùng hiếu chiến. Với cuộc sống chìm đắm
trong lễ tục tế thần man rợ, luôn tranh quyền tàn sát lẫn nhau và tàn phá môi
trường thiên nhiên, họ đã tự đào mồ chôn mình. Sự xuất hiện của người Tây Ban
Nha chỉ đẩy nhanh quá trình tự hủy đó mà thôi.
Tikal là thế hệ thứ hai sinh ra và lớn lên ở Mỹ,
tiếng Anh là tiếng mẹ. Ngoài nước Mỹ ra cô không hề nghĩ rằng mình còn có một
quê hương nào khác. Cô cứ hồn nhiên học hành rồi lớn lên đi làm, không hề có niềm
tin hay mặc cảm bộ lạc. Ông nội cô lúc còn sinh tiền thường nói đến truyền thống
Maya và dòng tộc Tikal, khuyên đừng quên nguồn gốc, mà chẳng bao giờ nói gì đến
quê hương, xứ sở hay một vùng đất nào rõ rệt của tổ tiên. Cô cho đó là lẽ tự
nhiên, bởi thế nước Mỹ mới được gọi là
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Năm cuối trung học,Tikal đã cùng một nhóm bạn đi du lịch
bán đảo Cancun nam Mexico. Cô đã lên đỉnh tháp Chichen Itza trong khu di tích Maya
ngồi chiêm nghiệm thật lâu, nhưng không có cảm ứng gì thiêng liêng về tổ tiên
hay dòng tộc. Đã vậy, khi hồi tưởng lại một cảnh trong cuốn phim về người Maya,
cảnh một nghi lễ tàn bạo diễn ra ngay đỉnh tháp được nhà làm phim thiết kế giống
y như nơi cô đang ngồi, cô đã rùng mình
kinh hãi.
Tikal
chưa từng thấy, dù là trong phim, cảnh hiến tế nào man rợ dường ấy. Một bộ tộc
hùng mạnh, bộ tộc Calakmul, đã tấn công một làng của bộ tộc thù địch, thẳng tay
tàn sát phụ nữ trẻ em, bắt sống đàn ông và thanh niên trai trẻ “xỏ xâu” dẫn về.
Những tù binh bị trói tay, sợi dây rừng tròng cổ cột vào những thanh nứa đập dập
nối nhau thành một hàng dài. Họ bị đánh đập không nương tay, bị dẫn qua sông suối,
núi đồi, một số đuối sức bị đâm chết quăng xác xuống hẻm vực dọc đường đi. Về
nơi tổ chức nghi lễ, tấm thân trần trụi nở nang của họ được bôi một lớp bột màu
xanh rồi được dẫn lên đỉnh tháp đứng xếp hàng chờ làm vật hiến tế. Các chiến
binh trợ tế Calakmul bật ngửa nạn nhân, mổ bụng moi tim trao cho vị chánh tế đứng
trên bục cao để vị này dâng lên thần linh. Khi vị này đọc xong câu thần chú khấn
vái thì đầu nạn nhân bị chém rời khỏi xác rơi long lóc xuống bậc cấp. Dưới chân
tháp đám đông dân chúng phấn khích vừa hò reo vừa dùng những chiếc vợt lớn
tranh nhau hứng lấy chiếc đầu. Nghi lễ kéo dài, không chỉ hiến tế năm-ba người
mà hàng hai-ba chục người, cứ lần lượt người này bị moi tim chặt đầu trước mặt
những người kia. Họ không cần bịt mắt mà những nạn nhân đứng chờ đến lượt mình
cũng không bộc lộ sự sợ hãi. Đến những người cuối cùng, nghi lễ được dừng lại
do một hiện tượng thiên nhiên xảy ra: cảnh nhật thực. Những người còn lại tưởng
sẽ được tha mạng, nào dè họ bị đem ra một bãi đất trống, thả chạy, làm mục tiêu
di động để các cung thủ Calakmul bắn tên chơi cho vui. Người cuối cùng sống sót
bị truy sát ra tới tận biển, nơi chiến thuyền Tây Ban Nha sừng sững xuất hiện
và cho lính đổ bộ lên.
Nghi lễ tàn bạo được nhà làm phim dựng cảnh vừa
sống động vừa man rợ đến rợn người.
“Niềm
tin bộ tộc sơ khai dẫn đến sự mông muội và tàn ác man rợ”- Phú Nguyễn, khi cùng
xem phim với Tikal đã nói như vậy.
“Cũng
may mà em không có niềm tin hay mặc cảm bộ tộc” - Tikal nói như thanh minh.
“Một
số tác giả cho rằng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa quốc tế cực đoan và sự
cuồng tín tôn giáo thời hiện đại đều có mầm mống từ niềm tin bộ lạc thời cổ xưa
nên tất yếu dẫn tới sự mông muội và tàn ác man rợ. Em được hấp thụ nền giáo dục
Hoa Kỳ nên dễ dàng thoát khỏi mặc cảm bộ lạc, tránh xa sự mông muội. Anh tin em
và chúc mừng em”.
Lúc
ấy Phú Nguyễn đã dọn qua sống chung với Mónica Tikal. Hai người cùng ngồi trên
sofa xem T.V.
“Phần
anh, nói thật, sức sống hồn nhiên mãnh liệt của em đã giúp anh xỏa bỏ mặc cảm
‘da vàng nhược tiểu’, gỡ bỏ dần nỗi sầu biệt xứ. Chính em đã nắm tay, giúp anh
dám mạnh dạn ngước nhìn bầu trời thay vì cứ nhìn mũi giày của chính mình mà
than thân trách phận. Anh biết ơn em, sự biết ơn sâu xa tận đáy lòng”.
Thông
thường, người gốc Hispanic-Latino (thường bị gọi là Mễ lậu) kết hôn với người
Việt, bên cạnh tình cảm lứa đôi còn có ý dùng hôn nhân để hợp thức hóa tình trạng
cư trú ở Hoa kỳ. Trường hợp Phú Nguyễn thì ngược lại, nhờ kết hôn với Mónica
Tikal mà anh đã trở thành lưu dân thường trú hợp pháp.
Khi
Mónica Tikal và Phú Nguyễn về lại thành phố dưới đồng bằng, họ đã đi qua công
viên Pioneer rợp bóng hoa anh đào. Cây cherry sau nhà cũng đã nở bông kín hết
các cành nhánh, trông từ xa như một khối bông khổng lồ. Thì ra đêm qua trên đỉnh
Timberline tuyết đã rơi thật dày, còn ở dưới “thành phố hoa hồng” này hoa anh
đào đã nở thật rộ. Buổi chiều hôm đó, khi cùng nhau đứng dưới gốc cây cherry ngắm
hoa, một cơn gió thổi qua làm hoa rơi lã chã, những cánh hoa trắng hồng như những
bông tuyết hứng ánh trăng, phủ lên tóc, lên vai, phủ kín cả hai người, họ lại bị
choáng ngợp.
Đôi
tình nhân chỉ còn kịp ôm chầm lấy nhau.
***
Nhiều
năm sau này, cứ mỗi lần nhìn hoa đào rơi
là Phú Nguyễn lại nhớ đến cái đêm xa xưa ấy khi anh cùng Mónica Tikal ngồi bên
nhau nhâm nhi ly rượu trong phòng khách sạn trên đỉnh Timberline, nhìn tuyết
rơi êm đềm bên ngoài cửa kính. Rồi khi thấy ngoài trời như sáng rỡ, hai người
đã đến bên khung cửa, dõi mắt nhìn xuống lũng sâu, nhìn những bông tuyết hứng
ánh trăng rơi chan hòa vào mênh mông trùng điệp rừng thông, tạo nên một cảnh tượng
lung linh kỳ ảo, họ đã bị choáng ngợp.
Đôi
tình nhân chỉ còn kịp ôm chầm lấy nhau.
Feb-2015
NGUYỄN
ÂU HỒNG
No comments:
Post a Comment