mai
quang
Thơ Vinh Hồ
Gởi Điềm Ca
Niêm hoa vi tiếu là
khi
Mùa-Xuân chạm phải
Xuân-Thì
vỡ ra (MQ)
Nhà thơ Vinh Hồ (tác giả thi tập: thơ Vinh Hồ) và chúng
tôi (tác giả bài viết) có cùng với nhau ít nhất là 4 cái “đồng”: Đồng hương; đồng
trang lứa; đồng điệu và đồng cảnh ngộ.
Cho nên người viết
không lấy gì làm ngạc nhiên (và hiểu được tại sao), cách đây trên 20 năm, anh
đã chọn thể thơ xưa Đường luật thất ngôn bát cú (1) để gói ghém, truyền tải, diễn
đạt xúc cảm, nội tâm (bên cạnh, anh còn
dùng những thể thơ khác trong sáng tác).
Phạm vi bài này cũng không đi sâu vào khảo sát Thi pháp
có đặc biệt chi, khiến có ai đó đã gọi thơ Đường luật của anh là “Đường-luật-Vinh
Hồ”.
Không!
Không có ý đi vào
khảo sát Chương pháp, Cú luật. Không đi vào phân tích thủ pháp Vinh Hồ
qua Khởi- Thừa- Chuyển- Hiệp hay coi thử
trong mỗi bài anh Khởi đề ra sao,
Phá đề thế nào? Không săm soi chi 2 cặp 4 câu Đối (Trạng và Luận).
Người viết chỉ chú mục vào Kết Cú, cặp Kết (câu 7 &
8), nơi đó lắng đọng ý thơ toàn bài. Nơi đó cũng là nơi tác giả điểm nhãn cho con rồng “thất ngôn bát cú” bay vào cõi Thơ. Nơi đó mở
ra một chân trời mênh mông bát ngát, với dư âm, vọng âm “ý tại ngôn ngoại”. Nơi
đó tiếng lòng của người thơ vang vọng
không dứt dư âm. Nơi đó có đủ hỉ, nộ, ái, ố... Nơi có thể là tiếng kêu
thảng thốt, trầm thống, hay tiếng gọi đò lạnh cả bến sông khuya tịch mịch… Nơi
đó cũng có thể là “đầu sào trăm trượng” ; “vực thẳm buông tay” (2)
Nào! chúng ta cùng thử đi vào 7 bài Đường luật sau:
1. Bài Rừng Núi
Hòa Sơn (Trang 20- thơ Vinh Hồ)
Vợ chồng đùm túm đến
Hòa sơn/ Rừng núi mênh mông trải nổi buồn/ Gò đất khô khan tro bụi thốc/Lán nhà
trơ trọi gió mưa tuôn/Bứt mây, làm rẫy ăn qua bữa/Đi điệu đãi vàng đứng nhớ con.
2 câu kết:
Bè bạn xa khơi, đời vạn nẻo
Đường về hun hút ngút cô đơn
Mở ra một chân trời cô đơn tột cùng tuyệt lộ của một định
phận rất riêng, bất khả đồng hành, bất khả sớt san, chia xẻ.
Ở đó nhà thơ của chúng ta:
Một mình một cõi
băng qua (Thơ MQ)
2. Trại Xuân
(Trang 21- Sách đã dẫn= Sđd):
Chờ đợi vu vơ một
bóng người/Bâng khuâng trại vắng gió xuân cười/ Hoa Mai vắng bặt rừng trơ trọi/
Cây Trúc không còn suối lẻ loi/ Đi hết ngọn đồi, đồi trọc trụi/Ngồi lì trên đá,
đá dôi doi.
2 câu kết:
Dưới kia thác nước gầm phun khói
Ba chú nai ngơ! Chẳng bóng người.
Màn lụa bạch của thác nước dưới kia trắng xóa, sôi sục, ầm ì tung bọt triền miên đến thiên nhiên cũng ngơ ngác!
Bóng người? -Tuyệt mù!
Khiến không khỏi liên tưởng đến cái lạnh Giang Tuyết của
Liễu Tôn Nguyên:
Thiên sơn điểu phi
tuyệt
Vạn kính nhân tung
diệt
Cô chu thoa lạp ông
Độc điếu Hàn giang
tuyết.
Tạm dịch:
Núi núi cánh chim
tuyệt,
Nẻo nẻo bóng người
biệt.
Ông thuyền: Nón, áo
tơi
Một mình trên sông
tuyết (MQ).
Tuyết chỉ là một chi tiết của hình nền. Cái lạnh cô tịch,
không do tuyết mà là cái lạnh nội tại kinh người!
3. Ta Đứng Bên Này
(Trang 23 Sđd)
Ta đứng bên này nhớ
phía đêm/Đại dương vời vợi, sóng xô ghềnh/Florida nắng vàng cây cỏ/Núi Vọng Phu
mưa tím nổi niềm/ Hồn gởi về quê, mây lãng đãng/ Sống xa cách bạn, bến im lìm
2 câu kết:
Ngày ra đi có trăng theo tiển
Thoát đã mùa cau rụng trắng thềm.
Những mùa trăng bình yên thơm nức hương cau thoảng gió đồng
của thời thơ ấu. Sáng ra, đã thấy hoa cau trải trắng đầy thềm. Cái “nhân chi
sơ” vẫn trẻ thơ nguyên đó, dù trong lưu lạc, lúc rộn ràng tất bật hay lúc tịch
tĩnh khoá mình trong phòng văn thì cuốc vẫn kêu xuân muộn, mưa bụi vẫn nở hoa
xoan đầy sân. Cái của người nay, cái của người xưa không khác. Cái khác chỉ là
hoa cau với hoa xoan (hề chi!):
Cuối ngày nhàn nhã
khóa phòng văn
Khách tục không lai
vãng đến gần
Trong tiếng cuốc
kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở
hoa xoan.
(Cuối Xuân Tức Cảnh--
Vinh Hồ dịch thơ Nguyễn Trãi) (3)
4. Thiên Ân Tự
Hoài Cảm:
Hạc nội, mây ngàn
in dấu, trưa/Nơi non thâm, nước quạnh, chim mùa/Am thiền tiếng mỏ vang Khe Đá/
Gậy trúc đường quê khởi Đại Thừa/Tổ đạo sen vàng vui xóm vắng/Dòng đời dâu bể lạnh
chùa xưa
2 câu kết:
Hàng dương soi, lá bàng rơi ngõ
Họa Thượng như về đứng! Tháp mưa…
Hàng dương (phi lao) soi bóng đứng chào ai. Lá bàng chạm
ngõ theo bước gió. Đến, ở, đi, về trong một chuỗi thành trụ hoại không. Rồi dẩn
tới cái Không của không khứ không lai. Như khứ như lai!
Tiếng mưa vỡ hạt
trên cổ tháp vẫn mãi tùy thuận tùy duyên. Và:
Tào Khê nước chảy vẫn
còn trơ trơ!
5. Vũ Trụ Cô Đơn
(trang 34 Sđd)
Kể từ chân ghé bến
Hòa Sơn/Thấy núi càng thương suối đổi hờn/ Cảnh khổ núi non thành núi trọc/ Đời
nghèo chân cứng đá thì mòn? Rừng đàn suối hát nằm trăn trở/Vượn hú chim kêu ngủ
chập chờn
2 câu kết:
Lại có những đêm yên tĩnh lạ!
Người hòa vào vũ trụ cô đơn
Đêm yên tĩnh/ Người định tĩnh. Sao trời ngừng lung linh.
Thời gian ngưng chảy trong dòng ý niệm. Cõi Phi-Thời- Gian. Người hòa vào vũ trụ-
Vạn vật đồng nhất thể-không còn ranh giới nhị nguyên, tha- tự, chia chẻ. Một cô
đơn tuyệt cùng:
Ta cất tiếng gọi
người
Chỉ âm vang vọng lại
lung linh
Cười rũ rượi thương
mình khờ khạo
Bởi đường Mây duy kẻ
độc hành
(Khúc Hát Con Đường
Mây Trắng. MQ)
6. Bên Tháp Bửu
Dương (Tr35 Sđd):
Chiều xuống ngồi
bên tháp Bửu Dương/Bâng khuâng hoa điệp nở ven đường/Long chầu, lân phục văn
kinh pháp/Hạc nội, mai ngàn lẩn khói sương/Cây gạo bao năm rồi trút lá/Dòng sộng
một thoáng hiện vô thường
2 câu kết:
Về đâu trong vạn trùng sinh tử
Cát vữa
âm thầm. Đêm hhả hương.
Sinh tử sự trùng trùng về đâu? Cát vữa âm thầm bong tróc,
vỡ vữa với thời gian và trở về với Đại địa. Bên dòng sinh tử luân hồi, đêm vẫn
nhả hương ngàn đời tịch tĩnh. Mùi hương của Giới-Định-Huệ, Giải Thoát, Giải
Thoát Tri Kiến. Của:
Hoa lưu động khẩu
ưng trường tại (Tào Đường)
7. Chùa Thiên Bửu
(Trang 65-Sđd)
Ba trăm năm trầm mặc
phương đông/Tháp cổ me già ôm mái cong/Lối gạch trăm đường nhòa xứ đạo/Chày
kình một tiếng đọng tầng không/Dòng sông trong trẻo, mây in bóng/Tán gạo tơ
non,ráng tụ đồng
2 câu kết:
Khách đã đi rồi chùa tĩnh lặng
Me vàng lả tả rớt bên song...
Khách đi/Khách đến quang cảnh rộn ràng. Chùa vẫn tĩnh lặng
với nụ cười trầm mặc trên tòa sen. Cây me vẫn rắc lá vàng trong gió, lả tả bên
song như nhắn nhủ thế nhân đang sống-chết,
đánh mất cái đang-là trong từng sát na sống.
Còn rải rác đâu đó là Tiếng Vô Thanh của Đoạn Trường.
Dư hưởng tiếng hú
trên đỉnh Cô phong vẫn mãi còn vang vọng và lạnh ngát bầu trời xanh (4)
Có lộng ngôn lắm
chăng?
Thật sự là hay nếu người đọc đang có trên tay thi tập:
thơ Vinh Hồ. Chắc chắn bạn đọc đi vào cõi thơ Vinh Hồ sẽ còn tự mình khám phá và cảm nhận thêm biết bao nét lạ lẫm…
Lắng nghe tiếng vỗ
của một bàn tay! (5)
May-2015
Mai Quang
---------------------------------------------------------
Phụ Chú:
*thơ Vinh Hồ: Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ- Florida USA
1999.
1.…”Thể thơ Đường luật, về hình thức, các nhà thi học phần
đông đều công nhận là toàn hảo. Nhưng nó chỉ thích hợp với những tình cảm đã tiết
được tiết chế, với những tâm hồn trầm tĩnh, với những người nặng về đời sống nội
tâm. Nó không thích hợp với người hiện đại, bởi lòng luôn luôn bị ngoại cảnh
chi phối, rất ít khi được yên tĩnh, ung dung, nhịp lòng với nhịp thơ không thể
hài hòa với nhau được thỏa đáng…” (Quách Tấn- Chút Lòng 23.9.1980-Thi Pháp Thơ
Đường).
2.
Đầu sào trăm trượng:
Bách trượng can đầu tu tấn bộ
Thập phương thế giới thị toàn thân
Đầu sào trăm thước thêm một bước
Mười phương thế giới hiện toàn thân
( dịch giả?)
3.Mộ Xuân Tức Sự:
Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất đình sơ vũ luyên hoa khai.
(Nguyễn Trãi- Ức Trai thi tập)
4.Ngôn Hoài
Không Lộ
(Thiền sư VN đời Lý)
Trạch đắc long xà địa
khả cư
Dã tình chung nhật
lạc vô dư
Hữu thời trực thướng
cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất
thanh hàn thái hư.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh dịch:
Tìm đất ẩn mình, chọn
được nơi
Tình quê dân dã suốt ngày vui
Có khi chót vót đầu non quạnh
Một tiếng cười vang lạnh cả trời!
(5) Công án của Bạch
Ẩn Huệ Hạc, Thiền sư Nhật bổn 1686-1769)
No comments:
Post a Comment