Nhà văn Túy Hồng
Nhà văn Nguyễn Thị
Tuý Hồng, tên cũng là bút danh. Bà sinh ngày 12-10-1938 tại Chí Long, Phong Điền,
Thừa Thiên – Huế, viết văn từ năm 1962.
Túy Hồng là một trong
nhóm các nhà văn nữ nổi tiếng trước năm 1975 bao gồm Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng,
Trùng Dương (Nguyễn Thị Thái), Nguyễn Thị Thụy Vũ, … Thời của một nền văn
chương tự do và lộng lẫy đã tạo điều kiện cho rất nhiều nhà văn nữ xuất hiện,
nhưng nhóm các nữ sĩ kể trên được coi như là tiền phong với những phong cách,
cũng như đề tài của họ đầy cá tính và khác biệt.
Tuý Hồng qua đời tại
Hoa Kỳ hôm 19 tháng 7. 2020, hưởng thọ 82 tuổi. Bà đã bỏ lại sau lưng tất cả: một
gia tài văn học với hàng loạt những truyện ngắn sáng tác tại Việt Nam và Hoa Kỳ
để theo chân chồng là nhà văn Thanh Nam đi sang cõi khác. Thanh Nam qua đời năm
1985 tại Mỹ.
Về Túy Hồng, Nguyễn
Chính nhận định: Nét đặc sắc trong văn của Túy Hồng là lúc nào cũng bàng bạc một
xứ Huế mộng mơ.
Sau đây để tưởng niệm
nhà văn thân yêu của xứ Huế vừa ra đi, xin mời các bạn cùng đọc một đoản văn đặc
sắc của Tuý Hồng.
PV
Tranh Đinh Cuong
Anh Đỗ,
Tôi
đã ở Huế từ trong bụng mẹ đến cuối năm thứ hai mươi tám của cuộc đời. Huế đã
mang thai tôi, đẻ ra tôi cho đến khi tôi đi lạc vào Sài-gòn. Từ hơn hai năm nay
tôi ở nhà thuê, nói tiếng Bắc, ăn chả giò, ăn bún riêu, canh chua cá dấm, thịt
bò vò viên, mía ghim… Hôm nào anh vào Sài-gòn tôi sẽ đãi anh ăn một bữa thịt bò
bảy món (mọi lần gọi là “bò bụng” vì ăn vào đầy một bụng thì thôi). Đàn ông ở
Sài-gòn ăn chua dữ lắm anh Đỗ ạ! có nhiều ông vác cả trái cốc dầm cam thảo vừa
đi vừa ăn lêu nghêu dọc đường.
Tôi
vào Sài-gòn đã hơn hai năm mà vẫn còn hụt chân chưa đứng vững được, nghĩa là:
tôi chưa hề viết được một chữ về cái Sài-gòn này. Khiếp quá! một lỗ hổng lớn…
Còn nhớ thời gian ở Huế, khi tôi mang ý định bỏ Huế vào Sài-gòn ra nói với anh
thì anh đã làm ra như cản như không: Chị chuồn hả? mình ở Huế có ai làm gì mình
được?
Mình
ở Huế có ai làm gì mình được … nghe thấm thía, thấm như nước mắm thấm vào cá nục
kho khô trong trách đất. Tôi vào Sài-gòn đâu phải là một cuộc tháo thân, vì đâu
có biết trước rằng trong tương lai Huế sẽ trải qua vụ đổ huyết rợn gáy lịch sử
là cái biến cố Mậu-thân vừa rồi. Hồi đó chúng ta đã chẳng bàn với nhau: Cộng-sản
chắc không chịu đánh Huế đâu? chẳng thêm cho họ được chút gì cả. Cái gọi là
quân sự đâu phải là đất thần kinh nhà mình. Rồi chúng ta nhìn Sài-gòn, nhìn
Nha-trang, nhìn Đà-nẵng bằng cặp mắt lo ngại… Bây giờ mới biết Huế đã đứng thật
gần lịch sử!
Tôi
cam đoan không có người Huế nào yêu Huế bằng tôi mặc dầu tôi đã bỏ Huế mà đi gần
ba năm nay. Tôi là một trong những người yêu Huế nhất với cái bằng chứng: tôi
chỉ viết được lai rai vài ba tác phẩm thôi mà cuốn nào cũng nói về Huế. Huế! Huế!
hễ cứ cầm cây bút lên là Huế! (Tôi yêu Huế chứ không phải yêu người Huế). Phải
là một thứ tình đậm đặc, kéo xiết khốc ác và cưỡng bức thế nào tôi mới viết về
Huế hết mình như vậy! Mặc dầu có những người Huế không bằng lòng tôi viết ra một
cái-Huế-như-vậy! Nhưng văn chương là viết những điều mình nghĩ và không làm
dáng. Tôi chỉ đặt vấn đề là tôi thương Huế mà thôi! Bỏ Huế mà đi lòng nhớ trời,
nhớ khoảng thiên nhiên. Tôi không yêu một thứ vẻ đẹp cấm cung, một thứ vẻ đẹp hạn
hẹp, mà yêu bao la cả một khoảng thiên nhiên. Huế đẹp từ một vũng nước đọng bên
đường đến lượng cả con Hương-giang, từ cọng rau muống bờ hồ đến cây phượng già
xanh lục. Có nhiều hôm đi xe đạp lên cầu ga nhìn dãy núi lam phía sau cầu Bạch-hổ
mịt mịt mùng mùng mà tưởng cái phần hồn của từng kiếp người cũng có thể dăng
dài keo kéo dãy như vậy! Những đêm mùa đông, những con “ệng oạng” kê mõm khoắc
khoải kêu khan từ những ao rau muống… Kêu chi mà khổ, mà trầm thống! Thêm vào
đó, tiếng rao hàng dài lê lết: mua trứng lộn! mua trứng lộn… Trời ơi! tiếng kêu
của miếng ăn sao mà buồn đến thế! nhức xương buốt tủy mất! Tưởng tượng mở cửa
kêu vào chắc mình phải ôm cô hàng trứng mà khóc ngất! Rồi cái quán cơm, quán
cơm cũng mang tên Âm-phủ ăn dưới ngọn đèn tù mù… và con đường Âm-hồn, tiếng
chuông chùa Diệu-đế… Cực lòng quá Huế ơi! Tôi đi! Tôi đi… ở với Huế buồn lắm…
Vào Sài-gòn họa may có một nụ cười…
Buổi
sáng tôi đi, tôi ôm gói áo quần xuống phi trường Phú-bài. Huế của tôi, tôi biết,
không bao giờ khóc người đi và cũng chẳng bao giờ mừng người trở lại. Huế của
tôi không yêu ai mà cũng chẳng phản bội ai.
Anh
Đỗ, khi chân vừa chấm đất Sài-gòn, tôi nhìn lại chiếc tàu bay mà lòng co quắp
đau đớn: thôi! mất Huế hẳn rồi. Tôi thương con đường Phan Chu Trinh với ngôi
nhà thềm trắng, bồn hoa violette, hai cây dừa xiêm giắt những gói muối, và bến
sông thân yêu trước mặt. Tôi biết rằng rồi đây người Huế sẽ lần lần từng người
từng người rủ nhau bỏ đi. Vì đó là mảnh đất tán chứ không phải tụ. Trời ơi! ra
đi như vậy thì còn để ai ở lại mà ngắm, còn để ai ở lại mà làm người mộng áo trắng
qua cầu, tóc thề vương vương con đò Thừa-phủ. Ngày chưa chia ly, ngày Huế chưa
chia ly với tôi và với những người khác, dân cư cũng đã quá thưa thớt, nhà cửa
cũng ít ỏi… Năm 1963, hai chiếc taxi Sài-gòn ra Huế chạy rước khách kiếm sống
nhưng không kiếm được chút đỉnh gì đành phải quay lui lại Sài-gòn. Anh Đỗ, Huế
thừa lẽ sống nhưng lại thiếu kế sống. Thành phố rất tinh thần, chỗ đất rất thần
kinh. Những ai không chịu được nỗi buồn cưỡng bức, những ai giá áo túi cơm đều
tìm không ra lẽ để sống với Huế. Tôi đã ra đi vì sợ nỗi buồn cưỡng bức, vì
không ngửi thấy nguồn hương tinh thần dành an ủi những tâm hồn không bao giờ chịu
xa Huế. Chỉ có những người chung thủy với Huế nhất mới ngửi thấy nguồn hương
tinh thần đó. Vì rằng ngày xưa khi vua đầu triều nhà Nguyễn đang tâm niệm tìm một
chỗ đất đóng đô thì thần linh hiện lên bảo: “hãy đứng bên trên đầu tổ quốc, hãy
thắp một cây hương rồi lần theo phương Nam mà đi xuống, đến chỗ nào cây hương tắt
thì hãy đóng đô.” Vì lẽ đó Huế là đất thần kinh. Kinh đô thần linh đối với những
kẻ đeo chiếc mũi phàm tục chai sạn không ngửi thấy nguồn hương tinh thần đầy an
ủi là một giải đất buồn phải không anh Đỗ. Buồn quá mà tôi đi phải không anh Đỗ?
phải không Huế?
Anh
Đỗ! chào anh.
TÚY
HỒNG
(Văn số Xuân Kỷ Dậu
1969)
No comments:
Post a Comment