Huy Tưởng. và tác phẩm mới in
đêm.tôi khản giọng
tru trăng
Cuồng nư cắn vỡ miếng
rằm.chưa lên
đất trời cuồn cuộn.mông
mênh
tôi nghe vang tiếng
biệt tăm.đáy chiều…
(Tiếng
Biệt Tăm,)
Nhà thơ Huy Tưởng đã bắt đầu tập thơ mới “Đêm
vang hình tiếng chuông” của mình bằng một bài thơ lục bát phá cách rất hàm súc.
Đây là tập thơ thứ 8 của ông sau hơn 60 năm đi và thở trong làn khí quyển thơ ca
với một đức tin mà ông tuyệt đối tin vào sự truyền dẫn của cảm xúc.
Trong một hành trình thơ, khởi đi từ thể
thơ “lục bát” mềm mại dân tộc, ông tiếp tục bung phá chữ nghĩa ở những thể thơ
khác, nhiều nhất là “tự do” để rồi trở về với nhịp câu 6,8 gập ghềnh, đa tầng,
đa ý.
Gần 200 bài thơ lục bát được gom lại, ôm
chứa bao nhiêu là hợp âm rung cảm xô dạt, biến thiên, của chiếc bóng đời người
trên vách thời gian khúc khuỷu. Tập thơ được nhà xuất bản Văn Học trình bày rất
trang nhã với những hoạ phẩm do hoạ sĩ Trương Đình Uyên thực hiện.
Có
bước vào thế giới lục bát của Huy Tưởng bạn mới thấy được đâu đó những bông hoa
long lanh ánh lửa, trăng tà mưng mưng, tiếng chim thóc thách, hay nũng nịu bờ
rêu. Tất cả những con chữ, tứ thơ, âm điệu, nhịp, câu, chạm nhau, hoà tan và dẻo
quánh lại, để phả ra một làn hương lạ, rất lạ.
tiếng chim.tát cạn
câu thơ
ngoài khung cửa cũng
bất ngờ.tắt hoa
tôi từ mông muội.bước
ra
đưa tay hái ngọn
trăng tà.lau đêm…
(Tiếng
chim,)
Tại
sao lại lạ?. Vì chúng được tác giả trân trọng dùng cảm xúc của mình dẫn người đọc
đi vào một căn nhà lục bát rất cổ xưa nhưng lại có cái cảm giác vừa thân quen vừa
khang khác trong tiết tấu lúc dồn dập, khi lắng chìm, thỉnh thoảng mênh mang
hiu quạnh. Đôi lúc, những “dấu chấm”; chen vào câu 6, câu 8 thay cho dấu phẩy,
chấm phẩy, hay hai chấm, có tác dụng hệt như một dấu ngắt, hay một khoảng trống
trong hội hoạ, hoặc dấu lặng ngắn trong một nhạc phẩm. “Dấu chấm” này nằm có khi
giữa câu, hay đâu đó trong một câu, mà không có khoảng trống ở giữa hai từ như
chúng ta thường viết. Nó khiến người đọc khựng lại, và chú ý tới những gì đang
xảy ra, để rồi ngạc nhiên với sự đổi mới trong lời, trong ý của các từ kế tiếp.
Không những thế, sau mỗi nhan đề của bài thơ, lại có một dấu phẩy. Tất cả làm
nên một ký hiệu riêng của một Huy Tưởng đặc thù.
Người
đọc có bao giờ hình dung ra được một tiếng chim lại có thể tát cạn một câu thơ.
Hay, ai có thể đưa tay hái ngọn trăng tà mà lau đêm.
Những
từ tượng thanh, tượng hình trong chữ ông dùng, đối đá nhau rồi hoà quyện mở ra
một không gian sinh động mà vô cùng lặng lẽ của người và vật trong một đêm
thanh. Nếu so sánh bài thơ với một bức tranh
chúng ta có thể ví nó như một bức tranh siêu thực mà sự vật thực trong trạng
thái không thực được thấy trong mơ.
đá im khàn giọng.chim
rừng
sơn núi lặng chết.như
từng lặng thinh
lặng thinh
trần trụi riêng mình
phất tay
nện một chày kinh
bỏ về …
(Chàng
“Sơn Núi” đã lặng lẽ ra đi,)
Điều
đặc biệt tôi thấy hầu như các bài thơ lục bát của ông trong tập thơ này, chúng
chỉ có 4 câu, không hơn không kém. Bất cứ cách trình bày nguyên hàng hay lên xuống
hàng thế nào, chúng cũng gói trong 4 câu vỏn vẹn. Dấu chấm trong câu lục của
ông như một nhịp chõi mở ra một thế giới đa tầng, đa nghĩa của những từ kế tiếp
như “đá im khan giọng.chim rừng”.
Nhắc
đến cố thi sĩ Nguyễn Đức Sơn là nhắc đến tình bạn thân thiết của hai nhà thơ
cùng thời, cùng thân thiết, cùng yêu thơ trong cái thú: ăn, ngủ, sống, chết với
thơ. Họ biết và chơi với nhau từ cuối thập niên 60 cho tới ngày “Sơn Núi”; đi
luồn vào núi không về nữa. Tôi chỉ có duyên biết và trò chuyện với cả hai mà
chưa bao giờ gặp gỡ. Tôi cũng ngạc nhiên khi tính khí hai người quá khác mà
chơi thân mới lạ. Hỏi Huy Tưởng, ông bảo, “Những ai đã chơi thân với Sơn mà
không có vài lần to tiếng thì...chưa được gọi là thân, nhiều lúc cãi cọ
suýt...đánh nhau”.
Ngày
đó họ thăm nhau, vì nhau, tương đắc nhau và cùng làm thơ.
Thưở
ấy “Sơn Núi” làm thơ cho con, “Nhìn con tập lật”, âu yếm, thương yêu giọt máu của
mình và sát cánh bên người vợ hiền chung thủy suốt đời theo ông dù phải sống
trong cảnh hàn vi. Ông tả cảnh ấy trong 1 bài thơ lục bát “Đốt cỏ trên rừng”
xem cha đốt cỏ ngoài
rừng
nâng niu mẹ ẵm theo mừng
không con
có vài chiếc lá còn
non
gió xua lửa khói nổ
giòn trên không
nắng tà trải xuống
mênh mông
bước theo chân mẹ cha
bồng hư vô
(Đốt
cỏ trên rừng-Nguyễn Đức Sơn)
Huy
Tưởng đáp lại một bài thơ như cảm được cái tình, cái nghĩa của người bạn nhưng
với chính tâm tư của mình.
bỏ thêm cọng cỏ khô
này
hơ cho đỡ lạnh bàn
tay sương mờ
ngồi bên ngọn lửa
hoang sơ
hốt nhiên tôi sợ hư
vô cháy bùng
(Đốt
cỏ trên đồi, -Huy Tưởng)
Ở
hải ngoại lâu, tôi không còn được trông thấy cảnh người ta đốt đồng hay đốt cỏ,
đốt rác ở Việt Nam. Đọc 2 bài thơ, quá khứ trong tôi sống dậy với những đám
khói đốt đồng lan toả trong không trung như sương mờ làm mắt cay xè những buổi
chiều tà. Hai nhà thơ cùng nhìn khói mà “Sơn Núi” thì “bồng hư vô”, trong khi
Huy Tưởng lại “sợ hư vô cháy bùng”
Cũng
trong thập niên 70, một bài thơ nữa cùng một tâm tư, ra đời.
đào lên.một gốc hoa
vàng
sao ta nghe động trăng
ngàn.suốt thu
con giun.con dế.sa mù
ngày mai thôi
nhé.thân mù mịt.bay...
ngày mai.cô độc nơi
này
bóng ta cuốc đất.vai
trầy hư không!
(Cuốc
Đất Cùng Em trai Trên Vườn Rẫy Cam Ranh,)
Nếu
bạn đi sâu vào dòng tư duy trong thơ Huy Tưởng bạn sẽ phác giác ẩn hiện đâu đó
mang mang những thao thức, khắc khoải khôn nguôi bởi lẽ sinh diệt của kiếp người,
của muôn loài. Ông đi vào thiền một cách nhẹ nhàng, không khoa trương sáo ngữ,
không lập đi lập lại sáo mòn.
Thơ
thiền hay ở ý, nhưng vị thiền không thể đượm hương bởi những từ ngữ chuyên biệt
uyên áo được rút ra từ trong các kinh sách hoặc từ các tự điển Phật học bị mất
máu vì chưa được tiêu hoá nhuần nhị, thiếu cảm xúc thực sự, biến một ảo diệu
thành khô cứng, chói tai, vô tri giác... Bùi Giáng bàn về Khổng, Mạnh,...mà chỉ
nói đến chuồn chuồn châu chấu,...quả là tài năng thượng thừa!
Ngay
cả những bài thơ dính tới Thiền của Huy Tưởng cũng không giống với cái gọi là
thơ thiền truyền thống.
chiều xước liềm trăng
non
mưa gẫy
gió vang xanh kè đá
chuông lều ai.vừa lấm
vệt son tươi ?
(Đến
thăm bạn đang ở ẩn trên núi,)
Bài
thơ trên, nhắc tôi nhớ những bài hài cú giản đơn mà thoang thoáng thiền vị của
các thiền sư Nhật nổi tiếng như Basho. Sự giản đơn mà cô đọng. Cực kỳ đơn giản
mà đa nghĩa là cái vi diệu của chữ nghĩa người làm thơ. Charles Mingus có nói
"Sáng tạo không chỉ là khác biệt. Bất cứ ai cũng có thể cố làm cho
khác thường, dễ mà. Cái khó là phải giản đơn như nhạc sĩ Bach. Làm cho nó đơn
giản, cực kỳ đơn giản, nhưng phải đơn giản tuyệt vời, ấy mới là sáng tạo “Hài
cú hay, thường có một câu cuối chấm phá mà ý thơ không dính dáng gì tới các câu
trên. Câu cuối “vệt son tươi” trong bài này, ý thơ đặc biệt gây
chú ý cho người đọc. Toàn bài tả cảnh một người đến thăm một người bạn đang ẩn
tu trên núi nhưng hình như lòng chưa thoát khỏi chữ “vọng” trong tâm. “vệt son
tươi?” ở đây chúng ta có thể hiểu là hình bóng một giai nhân hay là “vọng tưởng”
“vọng niệm” hay “tạp niệm” trong ngôn ngữ nhà Phật. Vì câu trên “chuông lều ai
vừa lấm” tiết lộ người này đang ẩn tu.
Lục
bát truyền thống có vần điệu được quy định sẵn, nhạc thơ cũng theo tiết tấu mà
nhịp nhàng lên xuống, khiến người đọc dễ thuộc lòng, hệt như một bài nhạc. Vì
cách gieo vận khiến ý và nhịp thơ liền lạc với nhau, tiện cho người làm thơ biến
bài thơ của mình thành một câu chuyện kể dài. Tuy nhiên đọc lâu biến thành ề à
một điệu, mau chán.
Cách
tân một bài lục bát không dễ, tuân thủ quá thì thành vè, hay tạo ra những chữ
thừa, biến thành kẻ ráp vần thô thiển, lười nhác. Còn nếu cách tân bằng thứ ám
ngôn đảo ngữ, hoặc đảo chiều cho điệp vận thì bao nhiêu năm nay đã có người từng
làm, nhan nhản mỗi ngày trên các phương tiện truyền thông. Huy Tưởng chọn một lối
cách tân riêng trong cả hình thức lẫn nội dung. Sống với chữ và làm mới thơ,
hình như là mục tiêu mà ông theo đuổi suốt cuộc đời. Tiết tấu thay đổi, cách và
lối đọc thơ cũng vì thế mà đổi thay.
đêm.treo trên tờ lá
rách
tôi về nghe.gió mách
nỗi buồn xưa
bướm gáy.gió mùa đã
cũ
ngày chưa qua.mưa lũ
cũng tràn theo...
(Đêm
treo trên tờ lá rách,)
Đẹp
nhất là hoa, sinh động hơn cả là bướm, thế giới thơ ca mà thiếu đi cánh bướm,
cành hoa thì nhàm chán biết là bao. Thơ của thi nhân mà thiếu một “vệt son tươi”
thì thiếu đi một cái cớ để làm thơ của kẻ thất tình. Phạm Công Thiện chỉ vì tiếng
cười và bóng một thiếu nữ áo vàng thấp thoáng ở sân chùa mà phải động tâm, hé cửa
nhìn xuống, tịnh thất khép lại phía sau. “Vệt son tươi” nào đã đi vào hoàng hôn
của thế giới thi ca của Huy Tưởng khiến ông phải:
một mai
trái đất có chìm
xin em
cố giữ trăng im trong
hồn
anh sẽ chạm trổ hoàng
hôn
chiều lam tất tả.đêm
dồn dập.xanh...
(Chạm
trổ hoàng hôn,)
hay
bên nhau.trên bước
chiều.lam
tay hoa nhuốm nụ.dương
cầm láy hương
nắng ươn ái ngủ trong
vườn
xưa.chung gối mộng.ngậm
hường tìm nhau...
(Tay
hoa nhuốm nụ,)
và
trời xanh.
xanh rất nhu mì
đồi nghiêng.cỏ mọc rậm
rì gót chân
về trong
tiết nhịp tình nhân
lần đầu.anh thấy
thiên thần...bay lên!
(Tiết
nhịp,)
TRỊNH
THANH THỦY
Trân trọng giới thiệu
đến các bạn yêu thơ.
Tập thơ “Đêm vang
hình tiếng chuông” của nhà thơ HUY TƯỞNG.
Sách do Văn Học Press
xuất bản, Dày 160 trang, 8.5” x 8.5”, sách in
màu
- 197 bài thơ của nhà
thơ Huy Tưởng
- 10 họa phẩm của họa
sĩ Trương Đình Uyên
Một tập thơ đẹp cả nội
dung lẫn hình thức.
Tìm mua trên:
BARNES & NOBLE
Xin bấm vào đường dẫn
sau:
No comments:
Post a Comment