Phan
Tấn Hải
Bùi Giáng. Nét vẽ Phan Tấn Hải
Nhiều
lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng.
Toàn
thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế.
Nụ
cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự,
với Diệt Đế.
Bùi
Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc
của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe.
Bùi
Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống
với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ.
Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa
có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là
diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh.
Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm
tôi nhiều thập niên qua.
Bùi Giáng là nhà thơ, là dịch giả, là nhà
bình luận văn học. Ông sinh ngày 17
tháng 12/1926 tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; từ trần ngày 7 tháng 10/1998
(thọ 71 tuổi) tại Sài Gòn. Như thế, vài tuần nữa là tròn hai mươi năm nhà thơ
Bùi Giáng qua đời.
Bản thân tôi, khi còn là một cậu học trò lớp
Đệ Lục (bây giờ là lớp 7) đã say mê đọc Bùi Giáng. Tôi đọc đi đọc lại những cuốn
Bùi Giáng viết về Bà Huyện Thanh Quan, về Chinh phụ ngâm và Quan Âm Thị Kính, về
truyện Kiều và truyện Phan Trần, về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, về Chu Mạnh Trinh,
và về một số người khác.
Trong đó, khi ra đề bài cho học sinh trung
học, Bùi Giáng từng hỏi, thí dụ tương tự như (tôi chỉ nhớ lờ mờ, không nhớ
chính xác): vào vườn Tao Đàn chơi, em sẽ nói gì nếu tình cờ gặp thi sĩ Chu Mạnh
Trinh; nếu phải biện hộ cho Hoạn Thư về những hành vi đối với nàng Kiều, em sẽ
nói gì… và vân vân.
Lúc đó, tôi hình dung rằng Bùi Giáng phải
là một nhà giáo hàng ngày trang phục nghiêm túc, phải mang kính trắng, phải đi
xe đạp hay xe mô-bi-lét, sáng đi chiều về tại một trường trung học nào đó ở Sài
Gòn; hay, khác đi, hẳn phải là một nhà văn ngồi hàng ngày ở nhà xuất bản. Lúc
đó, tôi muốn tìm mua hết các sách về văn học của Bùi Giáng, thế là nhiều lần
tôi đi xe đạp tìm địa chỉ nhà xuất bản Tân Việt – lúc đó, ghi sau bìa sách giảng
văn – nằm gần Tân Định trên đường Phan Đình Phùng (hay Phan Thanh Giản?), một
con đường xuyên từ Chợ Lớn tới Tân Định. Lần nào đi ngang cũng thấy cửa đóng,
mà trông không có vẻ gì như nhà xuất bản hay nhà in, chỉ nhìn như nhà dân thường,
mà phải là giai cấp trung lưu trở lên.
Sau nhiều lần đi ngang, một lần tôi liều
mạng, tới gõ cửa. Một người đàn ông mở cửa, nhìn tôi ngạc nhiên, nói rằng đây
không phải nhà xuất bản nào hết, cũng không có thầy giáo nào tên Bùi Giáng
trong nhà. Thế là cậu học trò lủi thủi, phóng lên xe đạp, biến mất với lòng thất
vọng, tiếc là mình tới địa chỉ đó trễ mất nhiều năm. Và rồi nhiều năm sau, khi
lên bậc Đại học, qua lại trong các sân trường Văn Khoa, Vạn Hạnh… gặp nhiều cuốn
sách khó hơn, cả thơ và bình luận triết học, của Bùi Giáng, mới biết rằng ông
là một nhà thơ bụi đời, ăn mặc dị thường, được nhiều người cho là điên, thường
mang túi xách rách rưới y hệt truyện kể về Tế Điên Hòa Thượng, thường tới lui Đại
học Vạn Hạnh và các sân chùa. Lòng tôi vẫn suy nghĩ rằng, một nhà bình giảng
văn học cực kỳ sắc bén như ông, hiển nhiên từng dòng thơ không thể nào cạn cợt
như người đời thường.
Một
lần tới quán cà phê Nắng Mới trước khuôn viên Đại Học Vạn Hạnh, tôi được các bạn
chỉ một người đi lang thang trên đường Trương Minh Giảng và nói đó là nhà thơ
Bùi Giáng.
Thế đó, ngó Bùi Giáng là thấy Khổ Đế liền.
Tôi nghĩ, hóa ra, Kinh Phật không khó hiểu tí nào.
Và rồi, ông mỉm cười với mấy tên sinh
viên đang ngồi bên các ghế thấp hè phố. Thế đó, nụ cười Bùi Giáng đã hiển lộ Đạo
Đế, tràn ngập an lạc. Tôi nghĩ, không ngờ Kinh Phật được tuyên thuyết ngay giữa
phố chợ như thế.
Niềm an lạc khi nhận ra Tứ Diệu Đế lúc
đó lan khắp toàn thân của tôi, toàn thân mát rượi. Nhưng mình không hiểu hết mọi
chuyện. Lúc đó, lại quay sang bàn chuyện học thi với các bạn. Nhiều thập niên
sau, tôi mới từ từ nhận ra ba đời chư Phật không lìa đâu xa, ẩn nghĩa đang nằm
ngay trong đời thường quanh mình. Thỉnh thoảng, tôi lại tìm đọc thơ của ông,
đôi khi lại vẽ ông. Và bây giờ, với lòng biết ơn, xin viết về ông.
*
Xin mời đọc toàn văn bài thơ sau trong
thi tập Bài Ca Quần Đảo (1973) của
Bùi Giáng, để thấy nửa đầu là Khổ/Tập Đế, nửa sau là Diệt/Đạo Đế:
Có lẽ (I)
Người nằm ngủ thấy gì
Thấy rất nhiều nắng lạ
Những chùm bông rất
xanh
Có lẽ bông là lá
Người nằm ngủ thấy gì
Chẳng thấy gì hết cả
Ngài thử nằm ngủ đi
Đừng hỏi gì hết cả
Bài thơ trên có thể làm người học Phật giựt
mình, vì gợi nhớ một bài kinh. Bài thơ chia làm hai phần: phần đầu nói về giấc
ngủ có mộng, thấy nắng, thấy hoa và lá; phần sau là giấc ngủ không mộng. Đức Phật
có ít nhất hai bài kinh giải thích về giấc ngủ có mộng và không mộng.
Trong Kinh SN 10.8 (Sudatta Sutta), khi
Sudatta hỏi Đức Phật ngủ đêm qua nơi vườn và được trả lời, bản Anh dịch Sujato,
dịch như sau:
A
brahmin who is fully extinguished
always
sleeps well.
Sensual
pleasures slide off them,
they’re
cooled, free of attachments. (1)
DỊCH:
Một bậc phạm hạnh đã
hoàn toàn tịch diệt
luôn luôn ngủ ngon.
Niềm vui ái dục biến
mất [trong tâm] rồi,
họ tịch lặng thanh
lương, xa lìa mọi dính mắc.
Kế
tiếp, tới Kinh AN 3.35 (Hatthaka Sutta), kể rằng lúc đó Đức Phật đang cư ngụ
trong một vườn cây simsapa, dưới mặt đất là gập ghềnh dấu chân bò trong khi tuyết
rơi, gió lạnh, Hoàng Tử Hatthaka xứ Alavi tới thăm, hỏi rằng Đức Phật có ngủ
ngon không. Đức Phật nói rằng ngài ngủ ngon. Hatthaka thắc mắc rằng vì sao có
thể ngủ ngon trong khi trời lạnh, mặt đất gồ ghề.
Đức
Phật nói, bản dịch Bodhi, trích:
He
always sleeps well,
the
brahmin who has attained nibbāna,
cooled
off, without acquisitions,
not
tainted by sensual pleasures.(2)
DỊCH:
Vị đó luôn luôn ngủ
ngon,
bậc Phạm hạnh đã
thành tựu Niết bàn
đã tịch lặng thanh
lương, không còn gì để tìm
và không nhiễm gì bởi
niềm vui ái dục.
Có phải Bùi Giáng luôn luôn ngủ ngon, ngay
cả trên hè phố gập ghềnh? Chúng ta không rõ. Nhưng, bất kỳ ai trong cõi này
cũng đều biết rằng không tình cờ mà chúng ta có giấc ngủ không mộng. Phải tu
ráo riết lắm, phải tu thậm thâm lắm, mới ngủ không mộng.
*
Bài thơ Mắt Buồn của Bùi Giáng cũng có phong cách tương tự bài thơ nêu
trên, cũng hai phần: với nửa đầu bài thơ là Khổ/Tập hiển lộ qua các hình ảnh ba
cõi bất an như: hao mòn, chiêm bao, náo động, bão giông, khóc đêm, triền miên
trôi; với nửa sau là Diệt/Đạo, ly nhất thiết tướng, buông bỏ toàn bộ [sắc thanh
hương vị xúc pháp]… để rồi trở về hiện tại [bây giờ], tự quán sát với mắt trí
tuệ [riêng đối diện tôi], khởi tâm Bồ tát đi vào cõi này để kham nhẫn mắt lệ từ
bi [khóc người một con]. Bài thơ dị thường này toàn văn như sau.
Mắt buồn
Dặm
khuya ngắt tạnh mù khơi (Nguyễn Du)
Bóng mây trời cũ hao
mòn
Chiêm bao náo động
riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh
hình hài
Tấm thân thể với canh
dài bão giông
Cá khe nước cõng lên
đồng
Ruộng hoang mang khóc
đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay
nghiêng
Âm trang sử lịch thu
triền miên trôi
Bỏ trăng gió lại cho
đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa
lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng
ma
Bỏ hình hài của tiên
nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện
tôi
Còn hai con mắt khóc
người một con.
Một bài thơ khác cũng có thể làm các Phật
tử giựt mình. Nhan đề Chào Nguyên Xuân
tức khắc gợi tới hình ảnh của an lạc, của ánh sáng tuệ giác, của một pháp vô
vi, không do tạo tác mà nên [nguyên = vốn sẵn, lìa sinh diệt]. Đó là Niết Bàn.
Bài thơ chở theo một nỗi buồn man mác, khi nói về lẽ vô thường [tóc xanh phai
màu], về con đường [sinh tử luân hồi], về bờ nước [gương tâm] vốn vô ngã nhưng
lại hiện lên bóng ta và bóng người [chấp có ta, có người], có năm ngón nhỏ phơi
bày bóng con [bàn tay có 5 ngón, là pháp hữu vi, có già chết; còn bóng con là
pháp vô vi, không thấy được nhưng không lìa hữu vi mà có], có Khổ Đế với khóc đời
bạc mệnh, nhưng nơi tịch lặng của Niết Bàn hễ nói nữa là sai… Bài thơ lạ lùng
này, toàn văn như sau.
Chào Nguyên Xuân
Xin chào nhau giữa
con đường
Mùa xuân phía trước
miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai
màu
Thì cây xanh vẫn cùng
nhau hẹn rằng.
Xin chào nhau giữa
lúc này
Có ngàn năm đứng ngó
cây cối và
Có trời mây xuống lân
la
Bên bờ nước có bóng
ta bên người
Xin chào nhau giữa bàn
tay
Có năm ngón nhỏ phơi
bày bóng con
Thưa rằng những ngón
thon thon
Chào nhau một bận sẽ
còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa
làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời
chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh
xin cam
Giờ vui bất tuyệt xin
làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi
đầy
Nhìn xa có bóng áng
mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê
đâu?
Thưa rằng: tôi ở rất
lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước
chân ra
Vì sao thấy gió đàn
xa dặm dài?
Thưa rằng: nói nữa là
sai
Mùa xuân đang đợi bước
ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích
chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà
chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt
mai sau
Là trùng ngộ giữa
hương màu Nguyên Xuân.
*
Tới
đây, là một bài thơ rất ngắn, nhan đề Bao
Giờ. Bài thơ ông làm chỉ ghi lại những cái được thấy đang trôi chảy trong
dòng thời gian vô thường, mà không hề đưa ra đánh giá hay tư lường [cái được thấy:
chì đen, chép thơ, tường trắng, lá lục hồng, than hồng, đốt, từng phút từng giờ].
Và rồi, Bùi Giáng so sánh việc ông làm thơ y hệt như cười và khóc bâng quơ [tôi
cười tôi khóc bâng quơ], và hỏi rằng độc giả có nhận ra ẩn nghĩa không [có ngờ
chi không].
Chúng
ta dễ dàng nhớ tới bài Kinh Bahiya Sutta, nơi đó Đức Phật dạy cho ngài Bahiya
pháp tức khắc xa lìa tam giới [không với đó, không trong đó] và do vậy, giải
thoát:
“Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong
cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được
nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức
tri sẽ chỉ là cái được thức tri... thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘với đó.’
Này Bahiya, khi ông không là ‘với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘trong
đó.’ Này Bahiya, khi ông không ‘trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi
này, cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn
tận khổ đau.”
Bài thơ Bao Giờ của Bùi Giáng toàn văn
như sau.
Bao Giờ
Bằng
bút chì đen
Tôi
chép bài thơ
Trên
tường vôi trắng
Bằng
bút chì trắng
Tôi
chép bài thơ
Trên
lá lục hồng
Bằng
cục than hồng
Tôi
đốt bài thơ
Từng
phút từng giờ
Tôi
cười tôi khóc bâng quơ
Người
nghe người khóc có ngờ chi không.
*
Trong nhiều năm qua, người viết trong những lúc rảnh rỗi, đã vẽ nhà thơ Bùi Giáng vì lòng kính mộ, vì lòng biết ơn. Trong đó có một tấm tranh trao tặng nhà văn Đào Hiếu năm 2014, khi vị tôn túc trong làng văn này từ VN sang chơi Quận Cam, ghé nhà thăm. Đó là tấm vẽ bằng mực Tàu trên giấy trắng, tấm duy nhất có bộ ria kiểu Hitler cho ngài Bùi Giáng.
Hôm nay, xin gửi hết 8 tấm tranh lên mạng,
không giữ bản quyền, để bất kỳ ai cũng có quyền sử dụng.
Nét vẽ vụng về, không hiển lộ được Khổ Đế
(huống gì là Đạo Đế), nhưng như thế đã là tận lực.
Những dòng chữ này và các nét vẽ này xin
trân trọng cúng dường một nhà thơ lớn, và cũng là người tự thân hiển lộ được Tứ
Diệu Đế.
PHANTẤN
HẢI
GHI
CHÚ:
(1) Kinh SN 10.8:
https://suttacentral.net/sn10.8/en/sujato
(2) Kinh AN 3.35: https://suttacentral.net/an3.35/en/bodhi
No comments:
Post a Comment