Trương
Vũ
Tranh Trương Vũ. Cây khô vào thu
Trong
suốt hơn một thập niên qua, những vấn đề giáo dục của Việt Nam thường là những
đề tài gây tranh luận trên báo chí. Hầu hết đều ghi nhận truyền thống hiếu học
của học trò Việt Nam và sự hy sinh của bố mẹ cho việc giáo dục con cái họ. Sinh
viên Việt Nam tốt nghiệp ở các trường giỏi trong nước khi ra nước ngoài tiếp tục
học ở các trường cấp trên thường đạt thành công không mấy khó khăn. Thế nhưng,
khi nhìn vào chương trình giáo dục của Việt Nam hiện nay và theo dõi báo động của
các nhà giáo dục trong nước, khó thể phủ nhận một thực tế là giáo dục tại Việt
nam đang có vấn đề, ở mức độ khủng hoảng.
Khủng hoảng hiện diện trong rất nhiều lãnh vực khác nhau của giáo dục.
Tình trạng bất cập, yếu kém trong chất lượng giáo dục và việc xem nhẹ hình
thành nhân cách cũng đã được ghi nhận trong một báo cáo thẩm tra của Quốc hội [1]. Vấn đề còn lại là làm sao giải quyết những khủng
hoảng đó dựa trên điều kiện thực tế của Việt Nam.
Bài
viết này chú trọng vào những vấn đề liên quan đến mục tiêu căn bản của giáo dục.
Ðể có được một cái nhìn bao quát và khách quan, trước hết tác giả xét đến kinh
nghiệm của một vài nước Á Châu đã từng có những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã
hội tương tự. Tiếp đó, tác giả liên hệ đến trường hợp Việt Nam và phân tích những
sai lầm căn bản trong giáo dục hiện thời, nói chung, và trong chương trình giáo
dục trung tiểu học cũng như ở đại học, nói riêng. Sau cùng, đưa ra một số đề
nghị giải quyết những sai lầm đó.
GIÁO
DỤC TẠI MỘT SỐ NƯỚC Ở Á CHÂU:
Singapore,
Ðại Hàn, Ðại Loan là một số nước Á châu đã từng trải qua những kinh nghiệm
tương đối giống Việt nam. Nhìn quá trình phát triển giáo dục của họ trong nửa
thế kỷ qua, ta có thể bắt gặp những vấn đề tương tự. Tuy nhiên,
vấn đề đó của họ xẩy ra ở những thời điểm sớm hơn. Ta cũng có thể nhìn thấy
cách giải quyết của họ khác Việt nam và quyết tâm của họ cũng khác. Bên cạnh,
cũng có những vấn đề rất giống nhau, nhất là những vấn đề có cội rễ từ hàng
ngàn năm phong kiến, từ hàng ngàn năm ở cửa Khổng sân Trình, từ cả trăm năm thuộc
địa, và từ khát vọng vươn lên bằng con đường ngắn nhất và hợp với truyền thống
nhất: con đường học vấn. Từ đó, sự giống nhau rõ nét nhất vẫn là khuynh hướng tập
trung quyền kiểm soát giáo dục vào tay nhà nước, và khuynh hướng của một số
đông thường coi nặng giáo dục như con đường tiến thân mà xem nhẹ mục tiêu chính
của nó. Ðiều này luôn luôn tạo nên tranh cãi, và cách giải quyết khôn ngoan vẫn
là làm sao áp dụng mô hình giáo dục của các nước tiên tiến tây phương một cách
thích nghi.
Mục
tiêu của giáo dục, về căn bản, không khác nhau. Ði vào thực tế, sự phát triển
hay trì trệ trên mỗi mục tiêu thay đổi tùy thuộc hoàn cảnh và mức độ phát triển
của quốc gia. Trong số ba quốc gia nói trên, Singapore có lẽ là quốc gia xác định
những nét căn bản trong nền giáo dục của họ rõ nhất, và chú trọng đặc biệt vào
việc giáo dục công dân họ trên những giá trị này. Sau đây là vài nét chính
trong nền giáo dục đó:
Nhiệm vụ
của giáo dục là phát triển cá nhân và giáo dục công dân
Sự phát
triển cá nhân phải toàn diện, bao gồm cả đức, trí, thể, mỹ và tính xã hội
Giáo dục
đào tạo con người có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, và bè bạn
Giáo dục
đào tạo con người có ý thức trách nhiệm với cộng đồng và đất nước
Ðể
làm tốt nhiệm vụ nói trên, các cơ quan giáo dục phải giúp trẻ em khám phá những
tài năng riêng biệt của chúng, ý thức rõ tất cả tiềm năng, và phát triển lòng
đam mê học hỏi cho suốt cả cuộc đời. Hệ thống giáo dục của Singapore uyển chuyển,
dễ điều chỉnh để thích nghi với những thay đổi của xã hội và đáp ứng với những
đòi hỏi ngày càng cao của quần chúng. Hệ thống đó cung ứng nhiều lựa chọn cho học
sinh, tạo thói quen đặt câu hỏi khi học, khuyến khích khả năng tự học, phát triển
khuynh hướng suy nghĩ về những cái mới và độc đáo. [2]
Ðiều
cần ghi nhận trong giáo dục toàn diện, không riêng gì cho Singapore, là phần đức
dục phải bao hàm tính trung thực, trong sáng, hồn nhiên; phần trí dục phải bao
hàm khả năng suy tư độc lập và tôn trọng sự khác biệt; phần mỹ dục phải bao hàm
khả năng sáng tạo và khả năng làm đẹp cuộc đời; và phần giáo dục tính xã hội phải
bao hàm khả năng biết tôn trọng tính đa dạng của cộng đồng và xã hội. Chúng ta
sẽ trở lại những điều ghi nhận này khi bàn về những vấn đề căn bản trong giáo dục
của Việt nam.
Dành
nỗ lực triệt để nhất cho giáo dục là Ðại Hàn [3].
Những vấn đề về giáo dục luôn là đề tài sôi nổi của giới truyền thông và hầu hết
dân chúng tin tưởng rằng tài nguyên quí
báu nhất của họ là nguồn nhân lực được đào tạo qua hệ thống giáo dục. Những
thành tựu của Ðại Hàn trong bốn thập niên qua đã chứng minh lòng tin tưởng và
quyết tâm của họ có cơ sở vững chắc. Hệ
thống giáo dục của họ giúp đất nước phát triển nhanh vượt bực, nhưng sự phát
triển nhanh vượt bực này ngược lại đòi hỏi những cải cách thích nghi của giáo dục,
tạo nên những chính sách không ngừng đổi thay. Chỉ riêng về chế độ thi vào đại
học, họ đã thay đổi ít nhất 20 lần kể từ 1945 đến nay.
Ðể
có một cái nhìn cụ thể về quyết tâm của họ, ta thử nhìn vào vài sự kiện và vài
con số. Sau đệ nhị thế chiến, quốc gia Triều Tiên thoát được sự đô hộ của Nhật
nhưng lại bị chia làm hai, dọc vĩ tuyến 38. Ðại Hàn là tên mới của phần đất
phía nam, lúc đầu đạt một nền độc lập không trọn vẹn, theo chế độ cộng hòa, phụ
thuộc lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ về quân sự
và cả về ngân sách. Ðến năm 1948, Ðại Hàn vẫn chưa đủ tiền để thực hiện
cưỡng bách giáo dục quá bậc tiểu học. Năm 1975, dù đang trong tình trạng bị đe
dọa bởi một cuộc tấn công bằng quân sự từ phía bắc, họ đã dành 13.9 % ngân sách
quốc gia cho giáo dục. Ðến năm 1986, tỉ lệ này tăng lên 27.3 %. Kết quả là từ một
nước mà tỉ lệ mù chữ là 78 % vào năm 1945, đến cuối thập niên 80 chỉ còn 7 %,
và ngày nay Ðại hàn là một trong những quốc gia đạt tỉ lệ cao nhất về số học
sinh tốt nghiệp trung học tiếp tục vào đại học, ngang hàng với Nhật và vượt xa
Anh quốc.
Ngày
nay, ưu tư hàng đầu của những người làm giáo dục của Ðại Hàn không còn là những
vấn đề căn bản, mà là những vấn đề ở cấp cao, những vấn đề đáp ứng với tham vọng
của một quốc gia muốn tiến nhanh vào hàng đầu của thế giới. Họ đang dồn nỗ lực
để xây dựng một nền giáo dục của thời đại toàn cầu hóa, với tiêu chuẩn quốc tế.
Những chính sách cải cách của Ðại Hàn ngày nay chắc chưa áp dụng thích hợp lắm
vào trường hợp Việt Nam. Tuy nhiên, thái độ quyết liệt và cách giải quyết khôn
ngoan đối với những khó khăn của họ rất đáng được ghi nhận khi nhìn lại những vấn
đề của giáo dục Việt Nam ngày nay.
Quan
trọng nhất vẫn là thái độ xem phát triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu, rồi nỗ lực
triệt để thực hiện thật tốt ưu tiên đó, như đã trình bày trên đây. Trong thực
hiện, họ nghiên cứu cẩn thận, uyển chuyển, và táo bạo. Thử nhìn vài thí dụ:
Giáo chức được xã hội coi trọng và hưởng lương tương đối cao so với
các quốc gia khác. Do đó, các chương trình đào tạo giáo chức đã thu hút được
thành phần học sinh ưu tú (thuộc hàng 5% đầu của thành phần tốt nghiệp trung học).
Mặc dầu chính phủ Ðại Hàn có khuynh hướng kiểm soát chặt chẽ hệ thống
giáo dục, năm 1999 tổng thống Kim Ðại Trọng đã ra lệnh hợp thức hóa nghiệp đoàn
giáo chức. Từ đó, đoàn viên của nghiệp đoàn bắt đầu tham dự vào các quyết định
làm chính sách và điều hành hệ thống giáo dục quốc gia. Nói khác đi, kể từ đó hệ
thống giáo dục của họ đã được dân chủ hóa.
Trước 1985, chế độ “dạy kèm ngoài giờ học chính thức” khá phổ biến.
Tình trạng này giúp nhiều giáo chức có khả năng kiếm thêm thu hoạch đáng kể và
giúp học sinh các gia đình giàu có cơ hội để đạt điểm số cao và nhiều khả năng
được thu nhận vào các đại học tốt. Tình trạng này gây nên một bất công lớn cho
xã hội. Một chính sách cải tổ được đề xuất vào khoảng giữa thập niên 80, ngăn cản
và trừng phạt việc dạy kèm đồng thời tăng lương giáo chức. Ðến cuối thập niên
80, hiện tượng dạy kèm gần như biến mất.
Ðại hàn chủ trương một chính sách tiếp thu giáo dục nước ngoài một
cách cởi mở và bạo dạn. Con số du sinh tăng 20 lần từ 1971 đến 1999, từ 7.632
người lên 154.219 người. Cũng vào năm đó, 130 trong tổng số 156 đại học bậc bốn
năm đã kết nghĩa với 2.130 đại học nước ngoài thuộc 110 quốc gia khác nhau.
Trong số này, 640 là các đại học ở Hoa Kỳ.
Sinh viên đại học không chịu sự kiểm soát về chính trị của bộ giáo
dục. Ngay từ thời tổng thống Lý Thừa Vãn, mà nhiều người vẫn coi như một nhà độc
tài của Ðại Hàn, sinh viên vẫn thường xuyên biểu lộ phản ứng chính trị của họ.
Chính nhờ sự độc lập về chính trị này cùng với những trang bị cao về chuyên môn
mà sinh viên Ðại Hàn có những suy nghĩ độc lập, lòng tự tin và niềm kiêu hãnh đáng
nể. Ngày nay đại học Ðại Hàn đang tiến dần đến sự tự trị hoàn toàn, giống như đại
học của các nước tây phương, đặc biệt là Hoa Kỳ.
KHỦNG
HOẢNG GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhìn
toàn thể, trường học Việt Nam đào tạo khá tốt về các môn khoa học tự nhiên và một
số ngành kỷ thuật. Khuyết điểm, nếu có, trong các lãnh vực này, có thể được khắc
phục tương đối dễ dàng. Khủng hoảng căn bản của giáo dục Việt Nam nằm ở mô thức
giáo dục và những chính sách liên quan đến mục tiêu hàng đầu là phát triển con
người toàn diện. Nói khác đi, nó liên hệ đến mục tiêu phát triển những giá trị
chính như sự trong sáng, khả năng sáng tạo, tư duy độc lập, và ý thức tôn trọng
sự khác biệt, v.v.
Một
nền giáo dục thực sự phát triển con người toàn diện không thể là một nền giáo dục
nhằm phục vụ một chế độ, một quan điểm chính trị, một tập thể lãnh đạo, một
giai cấp, một tôn giáo,v.v. Lỗi lầm quan trọng nhất trong giáo dục Việt Nam lại
nằm ở điểm này. Ở miền Bắc trước khi chiến tranh chấm dứt, và ở cả nước trong
khoảng gần 20 năm tiếp theo đó, nó là một nền giáo dục của xã hội chủ nghĩa, nó
không chấp nhận những mô hình xã hội khác, những tư duy khác. Bên cạnh đó nó là
một nền giáo dục mang tính giai cấp, dành đặc quyền giáo dục cho một thành phần
của xã hội. Ngày nay, tính giai cấp quả thật đã giảm đi nhiều. Riêng về các môn
học như Triết học Mác-Lê-nin, Chủ nghĩa khoa học xã hội, Lịch sử Ðảng, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, v.v. dù thực tế cho thấy sự thất bại không thể chối cãi của mô
hình xã hội chủ nghĩa, chúng vẫn còn là những môn học bắt buộc và chiếm một thời
lượng không nhỏ trong chương trình học và cả trong thi cử [4]. Dù rằng, không phải đến bây giờ mà đã hơn mười
năm trước đây, các môn học này đã được xem là những môn mà “thầy không muốn dạy, trò không muốn học” [5]. Sự bắt buộc này kéo theo một vấn nạn khác của
giáo dục: buộc học trò chấp nhận và sống với sự giả dối và bất công. Nhất là bất
công với những triết thuyết khác, những đóng góp trí tuệ khác trong suốt quá
trình phát triển của nhân loại. Theo Quốc Việt, “Việc đưa lịch sử đảng cộng sản,
chứ không phải lịch sử quốc gia và dân tộc thành một môn học bắt buộc là một việc
không những đi ngược lại với yêu cầu của xã hội mà còn phản lịch sử, phản dân tộc,
và phản tiến bộ.” [6]
Ngoài
sự bắt buộc giảng dạy các môn chính trị và triết học nói trên, phương pháp giáo
dục của Việt nam nói chung còn chịu ảnh hưởng nặng nề của một mô thức giáo dục
mà Ngô Tự Lập gọi là mô thức áp đặt [7]. Công bình mà nói, mô thức áp đặt vẫn có một vị
trí quan trọng của nó trong giáo dục, nhất là giáo dục ở bậc tiểu học, và phần
nào ở trung học, với điều kiện nó chỉ là một phần của phương pháp giáo dục mà
mô thức chính chú trọng vào việc gợi ý để học sinh phát triển óc sáng tạo và khả
năng tư duy độc lập. Dùng phương pháp áp đặt như một mô thức chính cho giáo dục
như trong trường hợp Việt nam hiện nay hoàn toàn không hợp lý cho sự phát triển
một nền giáo dục tiên tiến trong điều kiện toàn cầu hóa và thời đại của bùng nổ
thông tin. Ngược lại, nó đang biến nền giáo dục này trở thành lạc hậu, dù nhìn
trên mặt nổi, lượng thông tin trong các chương trình học ở Việt nam nhiều hơn
chương trình giáo dục của nhiều quốc gia tiên tiến. Theo Hà Thư Sinh (HTS), thế
hệ của ông “đã lớn lên trong một nền giáo dục thiếu vắng những nguyên tắc căn bản
như trung thực và sáng tạo”. [8] Chương trình
giáo dục được cải cách và áp dụng từ vài năm nay không cho thấy thế hệ kế tiếp
sẽ không còn đưa ra một nhận xét tương tự.
Một
sai lầm căn bản khác của giáo dục Việt nam là tính đồng phục trong giảng dạy. Ở
Việt nam, chỉ có một loại sách giáo khoa, của nhà nước. Ðiều này không thấy có ở
nước Pháp, nước Mỹ, và cả ở miền Nam Việt Nam trước đây. Trên nguyên tắc, thầy
giáo phải theo đúng chương trình của bộ Giáo dục, nhưng mỗi thầy giáo có khả
năng tiếp cận và truyền đạt riêng và chỉ dạy giỏi với cách tiếp cận đó, cách
truyền đạt đó. Mặt khác, một nền giáo dục tốt không thể là một nền giáo dục mà
hàng triệu học sinh tốt nghiệp ngoài việc tiếp thu những bài vở giống hệt nhau,
còn có cách nhận định, suy diễn như nhau, và nói năng giống nhau. Thật ra, hiện
nay vẫn còn nhiều quốc gia tập trung quyền soạn sách giáo khoa trung, tiểu học
vào bộ giáo dục như trường hợp Việt nam. Tuy nhiên, vấn đề của họ sẽ nhẹ hơn nếu
việc soạn thảo công phu, có chất lượng cao,
và sách giáo khoa được thay đổi và cập nhật nhanh. Những điều kiện này
hiện nay Việt Nam đang thiếu. Nhiều sai lầm trong sách giáo khoa được phát hiện
và khả năng cập nhật của Việt Nam lại rất chậm.
Sau
cùng, giáo dục không thể là một thứ ghetto, hay một tháp ngà mà phải gắn liền với
đời sống của xã hội. Nó ảnh hưởng lên xã hội và xã hội ảnh hưởng lên nó. Ảnh hưởng tiêu cực nguy hiểm nhất mà xã hội
tác động vào giáo dục là những tệ đoan và tính phi nguyên tắc của xã hội. Thực
tế của xã hội Việt Nam khó cho thấy khả năng cân bằng những ảnh hưởng tiêu cực
này bằng những ảnh hưởng tích cực, ít ra trong tương lai gần. Ảnh hưởng tích cực
lớn nhất mà mọi người đều nhìn thấy là sự hỗ trợ của gia đình trong việc giáo dục
của con cái. Xuất phát từ ảnh hưởng của nho giáo và truyền thống dân tộc, các
gia đình Việt Nam thường mang lại cho học đường sự hỗ trợ và hy sinh đáng kể
trong việc giáo dục con cái họ. Nhưng nếu giáo dục chỉ dừng lại ở những giá trị
đào tạo chuyên viên và viên chức, thì không khéo, những hỗ trợ và hy sinh này
chỉ còn lại mục tiêu là giúp tạo cơ hội tiến thân. Hiện nay, ý thức trách nhiệm
của cá nhân với cộng đồng chưa được phát triển đúng mức trong học đường như một
trong những mục tiêu chính của giáo dục. Nó gần như chưa có được bao nhiêu sức
mạnh cần thiết để học đường ảnh hưởng tốt lên xã hội, để cuối cùng giữa học đường
và xã hội có những ảnh hưởng hổ tương, như có thể nhìn thấy ở Singapore, ở Ðại
Hàn, hay Ðài Loan ngày nay. Hay cả mười hay hai mươi năm trước đây.
Những
trình bày sau đây liên quan đến một số vấn đề đang được bàn cãi nhiều nhất
trong việc giảng dạy ở trung, tiểu học và ở đại học.
Những
người đang ở ngoài nước, nếu nhìn vào nội dung các sách giáo khoa dành cho học
sinh tiểu học ở Việt nam hiện nay, không khỏi không kính phục. Nhưng sau đó,
suy nghĩ lại, thái độ thay đổi ngay. Chương trình giảng dạy quá nặng, hướng về
nhồi sọ, nhồi thông tin hơn là giáo dục thật sự. Thầy cô giáo không thể có đủ
thời giờ giảng dạy tất cả với thơì lượng cho phép ở trường. Không kể, với thực
tế về trình độ hiểu biết nói chung của giáo chức hiện nay, thật khó để tin rằng
họ có đủ khả năng truyền đạt tốt một nội dung như vây. Ðồng thời, rất khó để
tin rằng những đầu óc non nớt của các em ở lứa tuổi tiểu học có thể tiếp thu rồi
tiêu hóa phần nội dung đó một cách dễ dàng. Hậu quả là hầu như tất cả học sinh
đều phải đi học thêm.
Một
chương trình giáo dục như vậy dễ cướp đi sự hồn nhiên, và từ đó làm giảm sự
phát triển trí thông minh của tuổi trẻ Việt nam. Giáo sư Hoàng Tụy đã đưa ra những
nhận xét sâu sắc và đáng báo động khi ông phân tích và so sánh giáo dục của Việt
nam với giáo dục của Ðức. (Theo kết quả khảo sát công bố trên một tạp chí Ðức
ngày 8 tháng 8 năm 2002 thì trình độ học vấn của học sinh tiểu học ở Hà nội cao
hơn ở Munich, nhưng học sinh Ðức có phần thông minh hơn) [9]
Khi
trao đổi với một số nhà giáo dục từ Việt Nam sang, tôi thường được nghe sự than
phiền của họ về tình trạng giảng dạy ở đại học Việt nam hiện nay. Câu kết luận
thường giống nhau: đại học Việt Nam đang còn là một loại trường trung học cấp bốn.
Dĩ nhiên, chương trình học có cao hơn ở trung học nhiều, phương tiện giảng dạy
có đầy đủ hơn ở trung học và cả ở đại học trước đây, sinh viên tốt nghiệp ra nước
ngoài học tiếp không khó khăn lắm (nếu xuất thân từ các trường giỏi trong nước).
Ðiểm then chốt ở đây là đại học Việt Nam đang thiếu vắng những nét quan trọng
nhất để phân biệt một trung học cấp bốn với một trường đại học. Ðó là: quyền tự
do phát biểu của sinh viên; sự bình đẳng giữa thầy trò trong trao đổi tri thức,
trong tranh luận; và một môi trường để trưởng thành như một trí thức thực sự,
không chịu ảnh hưởng bởi những áp lực chính trị bên ngoài khuôn viên đại học.
Không phải sinh viên nào khi ra trường đều trở thành một trí thức, nhưng mục
đích của đại học phải là để đào tạo trí thức và giúp sinh viên có khả năng độc
lập để chọn lựa cách sống của mình. Kể cả sự lựa chọn không sống như một trí thức.
Ðể
trưởng thành như một trí thức, sinh viên phải được khuyến khích có tinh thần
sáng tạo, có suy nghĩ độc lập, có tính công bình, và ngoài những hiểu biết căn
bản còn những hiểu biết đi sát với thực tế của đất nước và thực tế của một thế
giới đổi thay nhanh đến chóng mặt. Ở đại học, nhiệm vụ của giáo sư không phải để
tạo ra những phó bản của chính mình mà để giúp tạo nên những con người độc lập,
có đóng góp đặc thù và có chất lượng, càng khác mình càng tốt. Ở đại học, thái
độ phản kháng của sinh viên với những mẫu mực phải được xem là chuyện thường
tình. Tôi không biết hiện nay có bao nhiêu sinh viên sư phạm Việt Nam dám viết
những luận văn kiểu như đặt vấn đề với một thái độ thẳng thắn là có nên giữ hay
bải bỏ giảng dạy các môn Triết học Mác-Lê-nin, hay đề nghị thay đổi mô hình
chính trị hiện tại. Tôi cũng không biết có bao nhiêu sinh viên văn học Việt Nam
dám viết một luận án đại loại như cho rằng các tác phẩm của Võ Phiến phải được
đánh giá cao và coi như một đóng góp lớn cho nền văn học của dân tộc, chỉ vì
sinh viên đó tin vào sự công bình với mọi nhà văn bất kể khuynh hướng chính trị
và tin vào khả năng phán đoán về văn chương của chính mình. Tôi cũng rất khó biết
có bao nhiêu giáo sư đại học Việt Nam dám bảo trợ những luận án như vậy. Chính
những cái “không biết” hay “khó biết” đó là những vấn đề quan trọng cho đại học
Việt Nam, mà hầu như không thể nào trở thành vấn đề ở các đại học tây phương.
VÀI
ĐỀ NGHỊ
Giáo
dục Việt Nam cần giảm bớt mô thức giảng dạy áp đặt và tăng cường mô thức gợi ý.
Cần
giảm thiểu sự mệt mỏi của học sinh, nhất là học sinh cấp tiểu học. Ðặc biệt,
nên giảm bớt lượng kiến thức hay thông tin trong chương trình học. Nhắm đến một
hành trình lâu dài hơn của con người. Không nên để họ gục ngã sớm về đầu óc.
Ðặt
nặng vào việc đào tạo giáo chức và dành những đãi ngộ đặc biệt cho họ. Trong
trường hợp các nước đang phát triển như Việt Nam, giáo chức phải được tuyển chọn
từ thành phần ưu tú nhất của đất nước. Trong thực tế, một thanh niên ở tuổi 18
mới bước chân vào đại học chưa có ý niệm gì về những vấn đề như yêu trẻ, như hết
lòng đào tạo tốt những thế hệ tương lai của đất nước. Chỉ có lòng tự hào, sự
đãi ngộ và vị trí xã hội mới lôi kéo được các sinh viên ưu tú nhất vào các trường
sư phạm, gần giống như cái cách mà nước Pháp đã dành cho sinh viên trường Cao đẳng
Sư phạm của họ, hay chính sách của Ðại Hàn như đã trình bày trên đây. Ðiều này
đòi hỏi một chính sách ưu đãi từ phía chính quyền và một thái độ yểm trợ tinh
thần từ xã hội.
Ðối
với các trường đại học, ngoài việc áp dụng chương trình giảng dạy theo mô hình
của các quốc gia tiên tiến tây phương, quyền tự trị đại học cần được ban hành
cho đại học Việt Nam. Thiếu sự tự trị, đại học Việt Nam khó thể hoàn tất vai
trò đào tạo trí thức của nó. Ðây có thể là một liều thuốc đắng nếu chính trị
xem đại học như một lực lượng đối kháng nguy hiểm. Nhưng, đây lại là một điểm
chuyển hướng quan trọng để những thành phần tốt nghiệp đại học trong tương lai
không mang mặc cảm nào với những đồng nghiệp ở các nước tiên tiến, đặc biệt ở
các nước Á châu vốn trước đây có cùng điều kiện văn hóa, giáo dục, kinh tế với
Việt Nam, như Ðại Hàn và Ðài Loan. Từ điểm chuyển hướng đó, họ mới có thể đóng
góp cho đất nước bằng tất cả sức mạnh tinh thần, lòng hăng say, và niềm kiêu
hãnh của họ. Ðừng nên quên một thực tế này, một sinh viên Việt Nam nếu bằng
cách nào đó ra khỏi nước, vào học các trường đại học của tây phương, khi trở về
(ngay cả khi quyết định ở lại ngoài nước)
thường được coi trọng hơn là nếu anh ta chọn ở lại với trường đại học trên quê
hương. Sự kính trọng đó phát sinh từ những điều kiện về giáo dục mà sinh viên
đó được hưởng ở nước ngoài, bao gồm những điều kiện mà anh ta hoàn toàn bị từ chối
nếu chọn ở lại trên quê hương. Ðây là một bất công rất khó giải thích.
Ðề
nghị sau cùng, và có lẽ là đề nghị quan trọng nhất, là nhà nước Việt Nam nên
xem phát triển giáo dục toàn diện là ưu tiên hàng đầu của quốc gia, xem nguồn
nhân lực được đào tạo qua giáo dục là tài nguyên quí giá nhất của đất nước. Và,
khi làm chính sách giáo dục đặt trọng tâm vào những mục tiêu lớn như đào tạo
con người trung thực, có sáng tạo, có tư duy độc lập, biết tôn trọng sự khác biệt,
v.v. bên trên sự chuyển giao tri thức.
Và, quên đi những gì thực sự không còn giá trị nửa.
Maryland, tháng 4 năm
2005
TRƯƠNG
VŨ
Chú Thích:
[1] Nguyễn Lân Dũng, “Năm kiến nghị về giáo dục,” tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, TP Hồ Chí Minh, số ra ngày 1.11.2004.
[2] Tài liệu của Bộ Giáo dục Singapore, trên website http://www.moe.gov.sq.
[3] Tài liệu của Bộ Giáo dục Đại Hàn, trên website http://www.moe.go.kr/en/ (bài viết của Jeong-Kyu nhan đề “Globalization and Higher Education: A South Korean Perspective”, bài viết của John C. Weidman nhan đề “Recent Trends and Developments in Education in the Republic of Korea”) và tài liệu trên website http://www.country-studies.com/south-korea/.
[4] Quốc Việt, “Về Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 23.2.2004,” Diễn đàn talawas ngày 2.3.2004 (phần Xã hội/Giáo dục).
[5] Lý Chánh Trung, “Thử tìm giải pháp cho một môn học mà thầy không muốn dạy, trò không muốn học,” Những Vấn Đề Việt Nam, nxb Trăm Hoa, California 1992.
[6] Quốc Việt, bđd.
[7] Ngô Tự Lập, “Giáo dục, Trí thức và nửa đường còn lại,” Diễn đàn talawas ngày 5.5.2003 (phần Xã hội/Giáo dục).
[8] Hà Thư Sinh, “Tôn trọng sự khác biệt,” Diễn đàn talawas ngày 6.1.2005 (phần Xà hội/Giáo dục).
[9] Hoàng Tụy, “Những nghịch lý giáo dục,” tạp chí Tia Sáng, Hà nội, số tháng 9.2002.
Chú Thích:
[1] Nguyễn Lân Dũng, “Năm kiến nghị về giáo dục,” tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, TP Hồ Chí Minh, số ra ngày 1.11.2004.
[2] Tài liệu của Bộ Giáo dục Singapore, trên website http://www.moe.gov.sq.
[3] Tài liệu của Bộ Giáo dục Đại Hàn, trên website http://www.moe.go.kr/en/ (bài viết của Jeong-Kyu nhan đề “Globalization and Higher Education: A South Korean Perspective”, bài viết của John C. Weidman nhan đề “Recent Trends and Developments in Education in the Republic of Korea”) và tài liệu trên website http://www.country-studies.com/south-korea/.
[4] Quốc Việt, “Về Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 23.2.2004,” Diễn đàn talawas ngày 2.3.2004 (phần Xã hội/Giáo dục).
[5] Lý Chánh Trung, “Thử tìm giải pháp cho một môn học mà thầy không muốn dạy, trò không muốn học,” Những Vấn Đề Việt Nam, nxb Trăm Hoa, California 1992.
[6] Quốc Việt, bđd.
[7] Ngô Tự Lập, “Giáo dục, Trí thức và nửa đường còn lại,” Diễn đàn talawas ngày 5.5.2003 (phần Xã hội/Giáo dục).
[8] Hà Thư Sinh, “Tôn trọng sự khác biệt,” Diễn đàn talawas ngày 6.1.2005 (phần Xà hội/Giáo dục).
[9] Hoàng Tụy, “Những nghịch lý giáo dục,” tạp chí Tia Sáng, Hà nội, số tháng 9.2002.
No comments:
Post a Comment