Friday, September 7, 2018

CẢM XÚC TỪ NEW ORLEANS, MỘT BUỔI CHIỀU…


nguyễnxuânthiệp

Tượng đài di dân bên sông Mississippi

        Lâu rồi không về lại New Orleans. Thành phố ấy mang bao kỷ niệm và nó vẫn nằm đâu đó trong tâm tưởng. Cho nên khi nghe ai nhắc tới cái tên New Orleans lòng mình lại bồi hồi. Như vừa qua, tình cờ được đọc một bài của Thụy Vi về New Orleans, mình cảm thấy như sống lại một thời. Đây xin nghe Thụy Vi kể: “Tôi đi trên hè phố đầy nắng dọc theo những ngôi nhà hai tầng san sát nửa kiểu Tây Ban Nha nửa kiểu Pháp choàng vai nhau bằng dãy balcon sắt trong một buổi chiều uể oải với cái nóng hầm hập ngày hè tháng bảy trong khu French Quarter mà người Việt thân thiết gọi là khu Pháp cổ của New Orleans.
        "Đang đi, bỗng tôi dừng lại bỡ ngỡ nghe đâu đó vang lên tiếng Guitar hoà theo giọng mang âm hưởng Blues khàn khàn thật thống thiết. Tôi nhìn chỗ người nghệ sĩ hè phố đang say sưa trong tiếng nhạc trên góc đường có quán Café Du Monde đã 150 tuổi vẫn giữ lối kiến trúc gần như y nguyên thuở ban đầu.”
        Và Thụy Vi đã dừng lại rất lâu để cảm xúc tuôn trào. Cô nhớ về Sài Gòn và đau đớn thấy thành phố của mình không được như New Orleans. Phải rồi, cây xanh bị đốn hạ, Givral và Eden bị đập nát. Chẳng còn gì là dấu tích ngày xưa.
        Đọc đoạn văn của Thụy Vi, Nguyễn thấy lòng xúc động nhớ lại một bài tản mạn mình đã viết ngày nào.
        
        Một lần, hoàng hôn chợt tím, khi Nguyễn lái xe qua chiếc cầu cao của thành phố Baton Rouge…chợt nghe khúc hát: Bên bờ sông Mississippi. ta ngồi ta hát, nhớ về vầng trăng. như khuôn mặt em rạng ngời trên sóng. Ôi, vầng trăng trên sông Mississippi mà ta đã nhìn thấy ngày nào. Có bao giờ gặp lại… Hình như Trương Nhược Hư có viết: Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh… Thế nhưng, với ta dường như chỉ có vầng trăng trên sông Mississippi là lộng lẫy nhất, đáng nhớ nhất.
     Về lại New Orleans lần này, Tim Nguyễn cũng mong tìm được một vầng trăng như trong khúc hát trên nhưng mây và mưa trong đêm đã che kín bầu trời. Tìm trăng. trăng khuất đã lâu. Ca từ trong tiếng hát một thời đã xa.

      Vâng. Về lại New Orleans lần này, Tim lại được dịp ngồi uống cà phê ở Café du Monde. Buổi chiều thật đẹp! Tim vừa thưởng thức cà phê vừa ngắm nhìn những chiếc xe ngựa đậu trước quảng trường Jackson Square và nhà thờ Saint Joseph. Ngay trước Café du Monde, một anh chàng da đen đang hát khúc hát buồn của những nghệ sĩ jazz vùng New Orleans.
       Sau ly cà phê và chiếc bánh beignet thơm lừng, Nguyễn cùng gia đình dẫn cháu gái Nguyệt Quỳnh đi dạo chơi trên Con Đường Trăng Moonwalk dọc bờ sông. Buổi chiều nắng nhẹ. Hải âu bay trên công viên, đáp xuống các thảm cỏ. Một đôi hải âu đậu ngay trên đỉnh tượng đài Di Dân – Immigrants, cất tiếng kêu. Chúng kêu vì vui chung trong niềm vui của người tứ xứ về đây dạo chơi trên đường trăng hay chúng kêu vì nhớ đất trời rộng lớn còn đọng trên đôi cánh? Hay vì chiều nay biết về nơi đâu / dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu?! (Lời Du Tử)
       Về đâu? Về đâu?… Nguyễn ngước nhìn lên tượng đài. Bố mẹ và hai đứa con -một con còn bồng ẵm trên tay mẹ, một con bố dắt đi sát ngay bên cạnh và là một bé trai. Thoáng chốc, lòng mình chùng xuống. Ôi, họ đến từ đâu vậy? Từ nước Pháp hay Đức hay Ý hay Tây Ban Nha? Họ có bị truy bức không hay chỉ vì muốn đi tìm một chân trời mới, khoáng đãng hơn và nhiều cơ hội hơn? Bản thân Tim này cũng là di dân cho nên dễ thông cảm với những người mẫu của tượng đài. Trong trí tưởng rất ư là lếu láo của mình, Tim hình dung thấy những khốn khó của các di dân. Sao buồn đến thế này, em ơi và các bạn ơi. Ôi, thế kỷ của rào cản của những đường ranh và những biên thùy có chó săn và súng đạn. Đã lâu rồi, ở những ngày khốn cùng và tuyệt vọng khi còn ở trại tù trong nước, nhìn trăng Tim nhớ đã có viết:

ta thấy. ôi. mây trời ảo biến
dưới trăng. lấp lánh bãi hằng sa
đất ơi. nỗi lầm than muôn kiếp
nhân loại. đi như những bóng mờ
nhân loại yêu đời trong nỗi chết
vượt biên thùy. sa mù. và mưa
từng nơi. đi dưới triền hoe nắng
gùi nặng. mang theo cả lợn gà
riêng lão già điên còn ở lại
đêm đêm. ra nhìn dòng sông. ca

      Thế đó, các bạn ơi, chúng ta nào có muốn nhưng đều bị xô vào nghịch cảnh. Cái cột đèn kia nếu biết đi thì nó cũng phải bỏ nước ra đi thôi! (Ôi, anh Trần Văn Trạch, anh nói một câu hay quá, mãi mãi sẽ còn được nhắc tới) Vâng, thế đó. Tim tôi có thể hình dung thấy, ở những ngày đầu tiên trên nước Mỹ này, đôi vợ chồng kia đều phải lao vào công việc. Chồng làm trong garage sửa xe hơi chẳng hạn, và vợ thì làm ở một hãng assembly, còn cậu con trai được đi học ít lâu rồi cũng nhảy ngang ra đi làm -bồi bàn nhé- để phụ giúp bố mẹ. Chỉ cô bé (?) còn bế trên tay là được học hành đầy đủ, để rồi sau này cô nhập vào dòng chính và trở thành nổi tiếng (như Leana Nguyễn), phải không? Rồi thời gian trôi qua, tới thế hệ thứ hai thứ ba, tất cả sẽ trở thành Americans như bao gia đình người Mỹ ta gặp chung quanh.
      Tim tôi gần đây cũng đã được xem ảnh chụp một tượng đài thuyền nhân ở Cali gồm vợ chồng con cái rách nát tả tơi, đưa bàn tay tuyệt vọng về phía chân trời. Tượng đài gây nhiều cảm xúc trong lòng mỗi người chúng ta.
       Xin nhắc lại: Thế kỷ vừa qua là thế kỷ của di dân. Và bây giờ cũng vậy. Họ phải vượt qua nỗi chết để tìm ra đất sống. Trên freeway số 5 ngày nào, từ San Diego đi Santa Ana, Tim đã được nhìn thấy tấm bảng vẽ một gia đình Mễ “vượt biên thùy sống chết”, gồm vợ chồng và đứa con gái dắt tay nhau chạy qua đường băng. Sao khốn khổ và liều lĩnh đến thế, nhưng suy cho cùng cũng là vì sự sống thôi, cũng như các thuyền nhân Việt Nam đã tạo nên một khúc quanh lịch sử của đổ vỡ, chia ly. Ôi, Việt Nam, từng là nỗi đau xé trong tôi / Sao tôi khóc lúc ra đi / Phương đỏ một lời yêu dấu cũ / Là lúc chia xa… Và rồi, chúng ta đứng lên. Từ những mảnh vỡ, chúng ta đứng lên. Và trên những vùng đất của thế giới, đã có những thư viện, trung tâm giáo dục và giải trí, những khu phố những thiền viện nguy nga của người Việt. Tất cả hiện lên sức sống và vẻ rực rỡ, khiến những quý ông Cộng Sản như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng… phải lớn tiếng tuyên dương “khúc ruột ngoài ngàn dặm”. Thật không còn danh từ nào để nói về họ nữa! Riêng với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, Tim này ước mong rồi đây ở những thành phố lớn như Washington DC, Houston, Dallas, San Jose, Westminster, Boston, Atlanta… mỗi nơi đều có tượng đài thuyền nhân, gồm gia đình hai vợ chồng và hai đứa con áo quần tóc tai tơi tả. Tượng đài này sẽ nói với mai sau về sự có mặt của chúng ta trên đất này.

      Trở lại với New Orleans, còn nhớ trong một đoản văn tiệp ký đã lâu rồi, kẻ này có viết như sau về New Orleans:
      “Cảng New Orleans từng nổi tiếng với những con tàu nằm mơ sóng trùng khơi. Người Việt bỏ xứ, ra đi từ những làng chài lưới ven biển quê hương, tụ tập về đây sống thành từng làng với nhau và còn giữ nếp sống của quê nhà. Đặc biệt ở khu Versailles, có những dãy phố của người Việt. Ở đây, người ta thấy có sự nhếch nhác quen thuộc, chứ không được khang trang như ở Cali hay Houston, Dallas. Có những xe tôm, xe rau bán ở vỉa hè. Có những thanh niên tóc dài, những người đàn ông mặt mày xiêu xó – hình như là lính tráng thời xưa. Họ ngồi uống bia trên góc phố và chào người qua lại. Ở đây, người ta gặp cả người da đen, da màu vào ra mua bán. Chung quanh, trong khu làng người Việt, người mình trồng rau trên sân nhà, đằng trước và đằng sau, gợi những hình ảnh quen thuộc đã mất hút trong thời gian. Nhiều nhà có tượng Đức Mẹ trước sân. Tim và bà xã đã đi xem chợ chồm hổm của người Việt trong khu Versailles. Chợ họp từ 5 giờ sáng và tan sau 8 giờ. Ở đây, người mình bày bán đủ thứ rau, trái cây, tôm cá, lòng heo, bánh mì thịt, gà vịt…
       Có những bà cụ già ăn mặc theo lối Bắc cổ truyền, ngồi bán vài mớ rau, trái mướp, trái bầu hoặc trầu cau. Bán chừng đó đâu được bao nhiêu, nhưng các cụ lấy làm vui vì có dịp sống lại không khí làng xóm quê nhà. Tiếng nói cười dậy cả một vùng. Tim tưởng mình đang ở chợ Vườn Chuối hay chợ Hòa Hưng ngày nào.”
       Thế đấy… khu phố Versailles với quán sách Kim Anh và chợ chồm hổm và quán cà phê Chiều Tím bên góc nhà thờ. Bây giờ tất cả còn không, ở khu phố đó, góc đường đó…
       Ơi, chàng nhạc công da đen có lần đã tấu lên khúc nhạc giang hồ nơi cảng rượu. Và cây guitar ngân vang như tiếng chuông của chàng, còn không Johnny B. Goode, hay đã vỡ tan trên kè đá trong trận hurricane ngày nào:

Deep down Louisiana close to New Orleans
Way back up in the woods among the evergreens
There stood a log cabin made of earth and wood
Where live a country boy named Johnny B. Goode
Who never ever learned to read or write so well
But he could play the guitar just like a ringing bell
Go go go Johnny go
Go go Johnny go
Go go Johnny go
Go go Johnny go
Go Johnny B. Goode.
(“Johnny B. Goode”, Chuck Berry) 

      Người nào đã nói: Tất cả đã không còn gì, New Orleans. Tất cả đã không còn gì, bình minh mặt trời bị đóng đinh trên cột buồm gãy gục, chuyến xe lửa chở hàng ngày nào đã đi vào hư vô:

Good mornin’ America, how are you
Don’t you know me? I’m your native son
I’m the train they call the City of New Orleans
I’ll be gone 500 miles when the day is done
(The City of New Orleans, Arlo Guthrie – trích lại theo Đỗ Kh., Talawas)

     New Orleans! New Orleans!
     Như thế đấy. Tiếng đàn guitar của Johnny, căn nhà gỗ và chuyến xe lửa mang tên Thành phố New Orleans. Đối với những người làm thơ lưu lãng, New Orleans là niềm bí ẩn có sức quyến rũ đặc biệt. Cũng như bạn Nguyễn Minh Diễm ngày nào, kẻ này rất yêu mê New Orleans -thành phố của những quán rượu giang hồ và nhạc jazz da đen cháy giữa đêm hồng. Ai đã từng ghé thăm khu phố xưa một lần, ắt không thể quên được. Vậy mà, có lúc, như đã nói ở trên, sau cơn bão Katrina năm 2001, chúng ta tưởng đã mất đi tất cả. Nhà cửa sụp đổ, đường sá nước cuốn trôi, người chết tìm được xác hoặc mất tích, cư dân thành phố bỏ đi, tan tác. Nhưng rồi New Orleans dần dần hồi sinh. Những căn nhà bắt đầu ấm lửa trở lại. Những khu phố bắt đầu có hơi người. Xin lật lại tờ Newsweek của tháng 9. 2002, xem tấm hình chụp cảnh phố Rue St. Louis ở khu Pháp Cổ, với lời ghi chú “một con phố hồi sinh sau cơn bão và nhà hàng ăn ở đây đã bắt đầu bày bán thức uống nhẹ”. Quả thật con phố đã bắt đầu có chút sinh khí mặc dầu dấu vết đổ nát vẫn còn đâu đó, trên một đoạn vỉa hè tróc lở, ở bức tường còn loang ngấn nước triều lên. Và kìa, trên chiếc bàn tròn bên góc vỉa hè thấy có chai rượu đỏ và cái ly. Tim nghĩ: Phải chăng góc này còn chờ đợi ai kia, sao lại không phải là chúng ta nhỉ, những tình nhân đã thất lạc nhau từ chiến tranh và những cuộc đổi dời. New Orleans. New Orleans. Anh thầm kêu lên, như Yuri gọi tên Lara trong giấc mộng.

     Và rồi người đã trở về. Nhạc Jazz trỗi dậy trên hè phố. Buôn bán đã phồn thịnh. Người Việt ở khu Versailles đã có thể trồng lại luống rau, giàn mướp. Và trước thềm nhà trong bóng hoàng hôn, một cư dân da màu đã có tuổi đang thanh thản uống bia. Và trên bức rào còn màu gỗ mới, một thanh niên da đen đang ngồi búng những tiếng đàn vào buổi chiều tím thẫm.
      Vâng, nước Mỹ không thể thiếu New Orleans. Tim Nguyễn và các bạn làm thơ đã từng viếng thăm thành phố này trong những năm tháng lãng du cũng không thể thiếu New Orleans. Ngay từ phút giây dạo chân trên hè phố Bourbon, Tim tôi đã có thể nghĩ tới ánh đèn Giáng Sinh trên nhà thờ Saint Joseph và ca khúc Jingle Bells Jingle Bells vang lên trước cửa mỗi nhà cùng ánh lửa bonfires bừng lên đây đó bên dòng Mississippi.

new orleans. new orleans
tôi lại trở về new orleans, nhưng không còn người trăm năm bên cạnh. chỉ có mưa. mưa trắng trời
mưa trong ly cà phê. mưa trong thơ tôi
tôi lại trở về new orleans. và café du monde.
và phố cổ. điểm hẹn của thời gian (NXT)

   Ôi, New Orleans… Nguyễn đã có lần viết về căn lều trên sóng của anh chàng da đen có tên là Larry và tiếng đàn guitar của Johnny bên bờ rào gỗ trong một buổi trưa vàng. Rồi cây cầu cao bắc ngang sông Mississippi ở Baton Rouge nơi một buổi chiều Nguyễn nhìn thấy trăng lên lồng lộng. Và cây cầu Pontchartrain dài mút mắt với cánh hải âu bay vút vào chân trời. Rồi ngôi chợ chồm hổm của đồng bào người Việt ly hương và cà phê Chiều Tím cùng quán rượu giang hồ của vợ chồng Việt Nguyễn trên đường Bourbon. Nhiều, nhiều nữa, trong đó có bức tượng di dân và tiếng kèn trumpet của người nhạc sĩ da màu trên quai de brumes...
   Bạn nhỏ ơi,
   Như bạn nhỏ đã biết, vùng đất  New Orleans, với đầm lầy truông phá và những cầu tàu sương mù, là đất của cà phê. Và của nhạc Jazz cháy bỏng, và điệu blues trầm buồn, tất nhiên. Họa sĩ Degas, thuộc trường phái ấn tượng Pháp, cũng đã có thời sống và vẽ ở New Orleans. Còn một người nữa, vâng, người thi sĩ lãng du bụi bặm ấy đã có lần ngồi làm thơ ngay dưới tượng đài di dân

Ôi. New Orleans
và mùi cà phê trên bến cảng
em có nghe
sóng vẫn vỗ. dưới chân cầu tàu. quai de brumes
và trên dòng Mississippi
và những cuộc đời
bay đi như chim
này. em có biết
"A good cup of coffee
một ly cà phê ngon
can turn the worst day tolerable,
có thể biến một ngày xấu thành dễ chịu
and can rekindle a romance,"
và có thể nhen lại ngọn lửa tình lãng mạn
như chuyện tình của anh và em
đầy ảo hoặc

    Tiếp tục trang tiệp ký (từ của nhà thơ Đỗ Quý Toàn) về New Orleans…Này, bạn nhỏ thân yêu, hãy tưởng tượng nhé -theo lời kể của một ký giả vùng New Orleans thế kỷ trước- vâng, hãy tưởng tượng một buổi sáng sau một đêm mất ngủ, một ông Pháp cổ gọi là Creole gentleman đứng trước quầy cà phê của một cô gái da đen ở khu French Market. Ông hát nho nhỏ với cô gái: Pitti fille, pitti fille. Petite fille, pette fille. Ơi cô gái nhỏ, cô gái nhỏ. Và có thể ông bỏ mũ, nghiêng đầu ứng khẩu đọc một câu thơ ca ngợi sự khéo léo của cô gái nhỏ dùng nước pha cà phê, và dường như cô cũng biến thành hạt cà phê: Pitti fille qui couri dan dolo - Petite fille qui court dans l'eau - Little girl who ran in the water. Cô gái nhỏ chạy chơi trong nước.
     Và trong bài về văn hóa Louisiana “Louisiana Culture - Gambo Ya Ya” Lyle Dixon kể lại những mẩu chuyện vui vui như thế. Ông kể về những người đàn bà bán cà phê dọc theo đại lộ Canal, trước nhà thờ St Louis. Ta nghe tiếng rao hàng đầy âm nhạc của họ “café noir, café au lait…” ngân vang trên phố. Và đây, em hãy nghe một ký giả của tờ Daily Picayune ca ngợi vẻ đẹp của nàng Rose Gla ở cuối thế kỷ 19: “Nàng là một trong những người duyên dáng tao nhã nhất của chủng tộc da đen. Da nàng đen như thần Erebus, nhưng Rose luôn luôn tươi cười và thân ái như bình minh. Ôi, cà phê của nàng thơm sao!” Và khi người đẹp tượng thần da đen bán cà phê qua đời, ký giả nói trên đã viết tang ca cho nàng: “Kể từ khi nàng chết đi, những người yêu hương cà phê của nàng cứ vào những sáng chủ nhật lại đi lang thang qua những quầy hàng cà phê với trái tim nhói đau trong lồng ngực mà than ôi có bao giờ được mãn nguyện đâu.”
  Và giờ đây, sau mấy năm, Nguyễn trở lại New Orleans gặp lại những bóng hình nửa thực nửa ảo diễu hành trong mưa. Đây, bạn nhỏ hãy đọc những câu thơ viết trong hương cây, hương mưa và hơi người ở New Orleans, chiều nào.

Mưa.
chiều new orleans

new orleans. new orleans
tôi về đây
như một tiếng gọi
nhưng không có dung
không còn nhìn thấy vầng trăng
trên dòng mississippi
chỉ có mưa
mưa rơi
dưới bầu trời. những ngôi nhà cổ. thời degas

ôi. những hàng cây
những mái phố. và balcon
ai thắp lên. những chiếc lồng đèn. bập bùng cháy
lửa voodoo
và người nghệ sĩ da đen. còn đứng thổi khúc blues
                                        buồn. trên phố bourbon
mưa
trên mặt trống. hoàng hôn
và trên tóc. nàng rose gla. của thế kỷ trước. hiện
                      về. với nụ cười của hoa cà phê. ngát
hương
mưa

tôi lại về. new orleans. với những cơn mưa tháng sáu
và những bóng dù
như mưa ở đà lạt. sài gòn
và trên thành phố cherbourg
những bóng dù. xanh. đỏ. tím. vàng
đi trên phố cổ
dưới mưa
sao không có em
để cùng đi với anh
những đoạn đường mưa vỡ. chiều nay

anh trở về new orleans
ngồi trong quán cà phê
chật ních người
nghe mưa từ dưới sông
mississippi
thổi vào mái quán
ở café du monde
anh ngồi ăn cái bánh beignet. uống ly cà phê sữa nóng
nhớ môi em. miệng em
ngày nào
chiều new orleans
không có em
anh chuyện trò với chú bồ câu. và những con chim
                                                             sẻ. trú mưa
chúng bảo anh. không còn gì nữa. thôi đừng chờ
dù cho mưa về từ trí nhớ mù sương
hay mưa trên ca khúc. the house of the rising sun
với những mảnh đời đổ vỡ
không bao giờ. sẽ không bao giờ. hàn gắn lại

mưa
những con đường lát đá
cỗ xe ngựa chở người đi thăm từng góc phố. đã có
                                                 mặt qua hai thế kỷ
những phòng tranh. quán sách vàng. tiệm rượu ở
                                     truồng. nồng mùi gió biển
khách sạn. nơi bán đồ lưu niệm. câu lạc bộ nhạc jazz. đèn mờ
mưa
trên cầu sương mù ai khóc. chiều của màu đá xanh
ai hay tôi
khóc
từ hải cảng mưa buồn
tới ga tàu điện
phố hầm
pho tượng di dân. đứng dưới trời
mưa
cho những hồn xiêu lạc
ở new orleans
chiều nay

tháng sáu. 2012
NGUYỄN XUÂN THIỆP


2 comments:

  1. Bài viết và bài thơ về New Orland của Nguyễn Xuân Thiệp rất tuyệt vời. Có lẽ nay mai tôi sẽ trở lại New Orland để tìm cái hồn của đất, của sông Mis ...

    ReplyDelete