Thursday, July 21, 2016

BA BÀI THƠ


Nguyễn Lương Vỵ


 Tranh thiền. Ánh sáng thời Trần Nhân Tông. Nguồn: Internet


CẢM ỨNG THƠ TRẦN NHÂN TÔNG

Tặng Nguyên Giác Phan Tấn Hải

1.

người lính già kể chuyện nguyên phong
rù rì theo sắc nắng thương mong
đầu bạc bên chiêu lăng lặng lẽ
tình quê nợ nước vẫn chưa xong

2.

một hơi thở một đời thế thôi
gió cuốn đi thực mộng quên rồi (*)
chùa làng lưu lại câu tâm bút
thơ bay đi theo mây rong chơi

3.

núi bảo đài thơm ngát ánh trăng
đời đang trôi như thầm nhủ rằng
năm tháng xa gần nâng sáo ngọc
nửa bóng râm và nửa tuyết băng

4.

mây giăng ảo diệu trên yên tử
chuông chiều thở nhẹ quanh thiền tự
cánh hồng rụng nhớ cánh bướm bay
nệm cỏ sư ngồi tứ niệm xứ

5.

thị phi hoa rơi rụng buổi sáng
lợi danh lạnh theo mưa ban đêm (**)
bật một que diêm trong im vắng
rít điếu thuốc tàn chẳng nghĩ thêm

6.

xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
sơn hà thiên cổ điện kim âu (***)
đời nay ngu ác đày dân khổ
trào đình hèn mạt sợ thằng tàu
7.

thơ là kệ hay kệ là thơ
hỏi làm chi xác chữ cứng đơ
thần hồn tạnh ráo sáng con mắt
pháp không sanh không diệt sang bờ

8.

tịch mịch rền câu có câu không
thuở anh niên đội nắng băng đồng
trời chẳng nói và đất chẳng nói
nắng đầu xuân gọi nắng đầu đông

9.

tịch mịch vui trăng non vừa nhú
tịch mịch sầu vớt lên tuyệt cú
sông thu vừa hớp ngụm sương mai
trời thu vừa nở thêm một nụ

07.2016

Ghi chú những chữ in nghiêng trong bài thơ:
- Nguyên Phong: Niên hiệu của vua Trần Thái Tông năm 1251. - Chiêu Lăng: Lăng mộ của vua Trần Thái Tông.
- Bảo Đài: Tên một ngọn núi ở Yên Tử, huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh. - Yên Tử: Vùng núi hiểm trở, hùng vĩ ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. - Pháp không sanh không diệt: Diễn ý từ 2 câu "Nhất thiết pháp bất sinh / Nhất thiết pháp bất diệt" (Hết thảy các pháp không sinh / Hết thảy các pháp không diệt) trong bài kệ "Thị Tịch" của Trần Nhân Tông.- Câu Có Câu Không: Tựa đề bài thơ (đúng hơn là bài kệ) "Hữu Cú Vô Cú" của Trần Nhân Tông. Hình thức, cú pháp, ngôn ngữ của bài thơ rất dung dị (4 chữ, 36 câu) nhưng nội dung rất hàm súc, uyên áo, thâm diệu, nói về Tánh Không (Sunyàta) của Phật pháp.
(*) Lấy ý từ 2 câu thơ "Thân như hô hấp tỵ trung khí / Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân" (Thân như hơi thở, thở ra hít vào [bằng] mũi / Cuộc đời tợ gió đi [vờn, luồn, bay lướt] trên đỉnh mây ngoài xa) trong bài thơ "Thân Như" của Trần Nhân Tông.
(**) Lấy ý từ 2 câu thơ "Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn" (Nghĩ chuyện thị phi rơi rụng cùng với hoa buổi sáng / Lòng ham danh lợi lạnh theo trận mưa đêm" trong bài thơ "Sơn Phòng Mạn Hứng" của Trần Nhân Tông.
(***) Ngày 17tháng 3 năm Mậu Tý (18.04.1288), sau chiến thắng Bạch Đằng, triều đình nhà Trần đem các tướng quân Nguyên bị bắt làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mấy con ngựa đá đều lấm bùn (vì trước đó quân Nguyên đã phá Chiêu Lăng và định đập bỏ ngựa đi mà chưa kịp), tức cảnh và xúc động, nhà vua viết hai câu thơ này. (Nguồn: wikisource.org).
Dịch nghĩa 2 câu thơ trên: "Trên nền xã tắc, hai lần ngựa đá phải lao khổ mệt nhọc / Nhưng núi sông ngàn đời được vững chắc toàn vẹn như cái thố vàng."



CẢM ỨNG THƠ ULYSSES CỦA NGUYỄN HOÀNG NAM

1.

ulysses của nguyễn hoàng nam
nói bâng quơ mà khớp trúng ngàm
lang bạt chợ chiều nhiều búng máu
phượt mút mùa đời nhẹ khôn kham

2.

cà phê chia nửa ngụm tào lao
nửa ngụm kia lý sự nháo nhào
tai ương nuốt ực đừng rên nữa
ngoài vùng phủ sóng của thiên cao

3.

hơi đâu mà trốn cái nỗi buồn
buồn thì ngồi nhớ cánh chuồn chuồn
chớp bể mưa nguồn chưa dứt mộng
buồn thiệt lâu ắt sẽ quên luôn

4.

máu trong thơ chẳng còn giọt nào
thì ném vào vài nhúm chiêm bao
cô hồn các đảng chưa yên nghỉ
thì tiếp tục mần thơ chứ sao

5.

thơ nên mần ngắn hay mần dài
dài lai rai ngắn cũng lai rai
trời đất muôn năm đã có sẵn
may ra dính chấu được một vài

6.

may ra còn vệt nắng trên bàn
níu chút tình xa xứ dặm ngàn
rock cũng rầu blue cũng ngán
symphony réo rắt tro than



7.

thôi nhé em đừng gọi lại sau
anh ở đâu thây kệ ở đâu
phôn phiếc lưng tròng nơi đất lạ
trời quen ngất tạnh ém đôi câu

8.

ém đôi câu nghe lại vĩ thanh
tâm muốn đi nhưng dạ chửa đành
chưa dứt mùi tanh trên thế giới
máu người ấm lạnh rắn bò quanh

9.

ulysses rong ruổi kiếp người
khóc cười to tám chín mười mươi
trời đất bất nhơn cơn với cớ
ợ trào thiên cổ đố nhau chơi...

6.2016


CẢM ỨNG ĐÊM DÂN CA

1.

đêm dân ca la đà lục trúc
thương tiếng buồn sương đục lóng nghe
dế rân sân trước trăng loe
vườn sau ớt đỏ cay xè tịch liêu

2.

mòn con mắt hình xiêu bóng ngã
đã từ lâu điền dã hòa âm
một dây nẫu ruột xa xăm
một đời đo đếm lạnh căm tơ mành

3.

gió lay lắt hương chanh hương bưởi
nhịp hắt hiu sông suối nguồn cơn
khói lam nhớ ruộng thương đờn
nhện sa sầu rụng oán hờn đâu đâu

4.

màu rơm rạ niềm đau chưa dứt
sắc trời thu ướt ngực chưa tan
mèo tru chó sủa thềm hoang
nửa khuya lướt web ca xang một mình

5.

một mình gấp tấm hình gió lật
rất mong manh và rất long lanh
hò lơ bờ bụi cây cành
bao nhiêu nếp gấp hòa thanh xứ người

6.

một mình gõ phím đời rau đắng
mọc sau hè có nhắn gì không
nếu không thì phẩy (,) xuống giòng
đừng buông dấu chấm (.) nước ròng nhớ thêm

7.

một mình nhớ trời đêm da diết
ngọn đèn chong mãi miết thầm reo
hò lơ câu hát trong veo
câu ca trong vắt bay vèo tháng năm

8.

đời náo nhiệt bao lần thức đợi
chút tình thư đã gởi theo mây
gió đưa cây cải tiếc thay
rau răm ở lại cầm tay giang hà

9.

đêm dân ca la đà lục bát
thương lục bình ngơ ngác nổi trôi
khôn khuây núi đứng núi ngồi
thị thành nín lặng giữa thời điêu linh

07.2016
NLV


No comments:

Post a Comment