Nguyễn
Lương Vỵ
Tranh thiền. Ánh sáng thời Trần Nhân Tông. Nguồn:
Internet
CẢM
ỨNG THƠ TRẦN NHÂN TÔNG
Tặng Nguyên Giác Phan
Tấn Hải
1.
người
lính già kể chuyện nguyên phong
rù
rì theo sắc nắng thương mong
đầu
bạc bên chiêu lăng lặng lẽ
tình
quê nợ nước vẫn chưa xong
2.
một hơi thở một đời
thế thôi
gió cuốn đi thực mộng
quên rồi (*)
chùa
làng lưu lại câu tâm bút
thơ
bay đi theo mây rong chơi
3.
núi
bảo đài thơm ngát ánh trăng
đời
đang trôi như thầm nhủ rằng
năm
tháng xa gần nâng sáo ngọc
nửa
bóng râm và nửa tuyết băng
4.
mây
giăng ảo diệu trên yên tử
chuông
chiều thở nhẹ quanh thiền tự
cánh
hồng rụng nhớ cánh bướm bay
nệm
cỏ sư ngồi tứ niệm xứ
5.
thị phi hoa rơi rụng
buổi sáng
lợi danh lạnh theo
mưa ban đêm (**)
bật
một que diêm trong im vắng
rít
điếu thuốc tàn chẳng nghĩ thêm
6.
xã tắc lưỡng hồi lao
thạch mã
sơn hà thiên cổ điện
kim âu (***)
đời
nay ngu ác đày dân khổ
trào
đình hèn mạt sợ thằng tàu
7.
thơ
là kệ hay kệ là thơ
hỏi
làm chi xác chữ cứng đơ
thần
hồn tạnh ráo sáng con mắt
pháp không sanh không
diệt sang
bờ
8.
tịch
mịch rền câu có câu không
thuở
anh niên đội nắng băng đồng
trời
chẳng nói và đất chẳng nói
nắng
đầu xuân gọi nắng đầu đông
9.
tịch
mịch vui trăng non vừa nhú
tịch
mịch sầu vớt lên tuyệt cú
sông
thu vừa hớp ngụm sương mai
trời
thu vừa nở thêm một nụ
07.2016
Ghi chú những chữ in
nghiêng trong bài thơ:
- Nguyên Phong: Niên hiệu của vua Trần
Thái Tông năm 1251. - Chiêu Lăng:
Lăng mộ của vua Trần Thái Tông.
- Bảo Đài: Tên một ngọn núi ở Yên Tử, huyện
Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh. - Yên
Tử: Vùng núi hiểm trở, hùng vĩ ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. - Pháp không sanh không diệt: Diễn ý từ 2
câu "Nhất thiết pháp bất sinh / Nhất thiết pháp bất diệt" (Hết thảy
các pháp không sinh / Hết thảy các pháp không diệt) trong bài kệ "Thị Tịch"
của Trần Nhân Tông.- Câu Có Câu Không:
Tựa đề bài thơ (đúng hơn là bài kệ) "Hữu Cú Vô Cú" của Trần Nhân
Tông. Hình thức, cú pháp, ngôn ngữ của bài thơ rất dung dị (4 chữ, 36 câu)
nhưng nội dung rất hàm súc, uyên áo, thâm diệu, nói về Tánh Không (Sunyàta) của
Phật pháp.
(*) Lấy ý từ 2 câu
thơ "Thân như hô hấp tỵ trung khí / Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân"
(Thân như hơi thở, thở ra hít vào [bằng] mũi / Cuộc đời tợ gió đi [vờn, luồn,
bay lướt] trên đỉnh mây ngoài xa) trong bài thơ "Thân Như" của Trần
Nhân Tông.
(**) Lấy ý từ 2 câu
thơ "Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn" (Nghĩ
chuyện thị phi rơi rụng cùng với hoa buổi sáng / Lòng ham danh lợi lạnh theo trận
mưa đêm" trong bài thơ "Sơn Phòng Mạn Hứng" của Trần Nhân Tông.
(***) Ngày 17tháng 3
năm Mậu Tý (18.04.1288), sau chiến thắng Bạch Đằng, triều đình nhà Trần
đem các tướng quân Nguyên bị bắt làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông
trông thấy chân mấy con ngựa đá đều lấm bùn (vì trước đó quân Nguyên đã phá
Chiêu Lăng và định đập bỏ ngựa đi mà chưa kịp), tức cảnh và xúc động, nhà vua
viết hai câu thơ này. (Nguồn: wikisource.org).
Dịch nghĩa 2 câu thơ
trên: "Trên nền xã tắc, hai lần ngựa đá phải lao khổ mệt nhọc / Nhưng núi
sông ngàn đời được vững chắc toàn vẹn như cái thố vàng."
CẢM
ỨNG THƠ ULYSSES CỦA NGUYỄN HOÀNG NAM
1.
ulysses
của nguyễn hoàng nam
nói
bâng quơ mà khớp trúng ngàm
lang
bạt chợ chiều nhiều búng máu
phượt
mút mùa đời nhẹ khôn kham
2.
cà
phê chia nửa ngụm tào lao
nửa
ngụm kia lý sự nháo nhào
tai
ương nuốt ực đừng rên nữa
ngoài
vùng phủ sóng của thiên cao
3.
hơi
đâu mà trốn cái nỗi buồn
buồn
thì ngồi nhớ cánh chuồn chuồn
chớp
bể mưa nguồn chưa dứt mộng
buồn
thiệt lâu ắt sẽ quên luôn
4.
máu
trong thơ chẳng còn giọt nào
thì
ném vào vài nhúm chiêm bao
cô
hồn các đảng chưa yên nghỉ
thì
tiếp tục mần thơ chứ sao
5.
thơ
nên mần ngắn hay mần dài
dài
lai rai ngắn cũng lai rai
trời
đất muôn năm đã có sẵn
may
ra dính chấu được một vài
6.
may
ra còn vệt nắng trên bàn
níu
chút tình xa xứ dặm ngàn
rock
cũng rầu blue cũng ngán
symphony
réo rắt tro than
7.
thôi
nhé em đừng gọi lại sau
anh
ở đâu thây kệ ở đâu
phôn
phiếc lưng tròng nơi đất lạ
trời
quen ngất tạnh ém đôi câu
8.
ém
đôi câu nghe lại vĩ thanh
tâm
muốn đi nhưng dạ chửa đành
chưa
dứt mùi tanh trên thế giới
máu
người ấm lạnh rắn bò quanh
9.
ulysses
rong ruổi kiếp người
khóc
cười to tám chín mười mươi
trời
đất bất nhơn cơn với cớ
ợ
trào thiên cổ đố nhau chơi...
6.2016
CẢM
ỨNG ĐÊM DÂN CA
1.
đêm
dân ca la đà lục trúc
thương
tiếng buồn sương đục lóng nghe
dế
rân sân trước trăng loe
vườn
sau ớt đỏ cay xè tịch liêu
2.
mòn
con mắt hình xiêu bóng ngã
đã
từ lâu điền dã hòa âm
một
dây nẫu ruột xa xăm
một
đời đo đếm lạnh căm tơ mành
3.
gió
lay lắt hương chanh hương bưởi
nhịp
hắt hiu sông suối nguồn cơn
khói
lam nhớ ruộng thương đờn
nhện
sa sầu rụng oán hờn đâu đâu
4.
màu
rơm rạ niềm đau chưa dứt
sắc
trời thu ướt ngực chưa tan
mèo
tru chó sủa thềm hoang
nửa
khuya lướt web ca xang một mình
5.
một
mình gấp tấm hình gió lật
rất
mong manh và rất long lanh
hò
lơ bờ bụi cây cành
bao
nhiêu nếp gấp hòa thanh xứ người
6.
một
mình gõ phím đời rau đắng
mọc
sau hè có nhắn gì không
nếu
không thì phẩy (,) xuống giòng
đừng
buông dấu chấm (.) nước ròng nhớ thêm
7.
một
mình nhớ trời đêm da diết
ngọn
đèn chong mãi miết thầm reo
hò
lơ câu hát trong veo
câu
ca trong vắt bay vèo tháng năm
8.
đời
náo nhiệt bao lần thức đợi
chút
tình thư đã gởi theo mây
gió
đưa cây cải tiếc thay
rau
răm ở lại cầm tay giang hà
9.
đêm
dân ca la đà lục bát
thương
lục bình ngơ ngác nổi trôi
khôn
khuây núi đứng núi ngồi
thị
thành nín lặng giữa thời điêu linh
07.2016
NLV
NLV
No comments:
Post a Comment