nguyễn
thị khánh minh
Quê nhà NTKM.
Photo Đỗ Hồng Ngọc
Con đường dẫn về quê
hương,
là con đường hẹn hò
mà bạn ít bị lỗi hẹn nhất...
(Khuyết danh)
Tôi
sinh ra ở Hà Nội. Nhưng ký ức về Hà Nội chỉ là một căn phòng kín bưng trong trí
nhớ, tôi như luôn đứng trước cửa phòng ấy với một cảm giác nôn nao, thôi thúc,
và cũng buồn bã tự hỏi, bao giờ thì tôi sẽ mở căn phòng ấy và xếp đặt bày biện
mọi thứ tôi đem về từ thực tại?
Ngày
rời xa Hà Nội, mẹ kể, tôi ngủ say trong vòng tay mẹ trên chuyến bay Hà Nội-Nha
Trang vào một ngày cuối đông. Hà Nội... Như một tờ giấy trắng bong. Không một
cảm nhận rõ rệt từ tâm thức lẫn giác quan. Không đất, không nắng, không gió,
không mưa, không mùi trời khí đất, không cả hương vị món ăn nơi ấy, thì làm sao
có thể có được một giọng nói Hà Nội? Hà Nội thơ trẻ như Thanh Lan, Hà Nội nhẹ
trong như gió của cô Mai Hương, Hà Nội trầm hoàng hôn của Khánh Ly, Hà Nội ấm
nồng của Thu Phương, và Hà Nội sang cả của bác Thảo (người mà theo mẹ tôi kể là
nhân vật trong Tóc Chị Hoài của
Nguyễn Tuân), bởi vậy mẹ tôi vẫn thường nói, chẳng một chút gì là Bắc cho giống mẹ! Chịu vậy thôi. Cái khắc
khoải Hà Nội cho tôi hoài đeo đuổi những bước chân nôn nả của giấc mơ. Có thi
vị không nỗi chờ đợi ấy? Có buồn lãng mạn không khi nghĩ mình hoài là kẻ tương tư cố lý?
Vâng,
Hà Nội là giấc mơ của tôi. Sẽ phải có một ngày đem giấc mơ ấy về đứng ở nơi,
gió thở tiếng khóc chào đời. Sẽ để mình rét cho thấm thía hết cái lạnh mùa đông
Hà Nội. Sẽ đi trong đêm và nhất định là trong hương thơm hoa hoàng lan của
Thạch Lam, lúc ấy tôi sẽ đủ tư cách để thưa với Vũ Bằng rằng tôi đã cảm nhận
được một cách rất thơ cái “trăng non
tháng giêng rét ngọt” của ông rồi. Có thể tôi sẽ là người nghệ sĩ đi lang
thang trên phố trong bàng bạc nhạc Phú Quang, để đồng cảm với nhà thơ Phan Vũ
cái nỗi niềm chẳng nhớ nổi một tên đường,
làm sao mà nhớ được khi ở trong cái quá chừng lãng đãng khói sương ấy, ôi, đi
và tan vào những con đường từ lâu đã chìm trong huyết mạch mình, phải không
thưa người?
Tôi
sẽ làm một chuyến, như hành hương của riêng tâm linh mình, về quê ngoại. Bước trên
ngõ làng, nơi từng in dấu chân bà ngoại tôi, mẹ tôi thời ấu thơ, từng viên gạch
xưa ấy đã trăn trở bao buồn vui cùng họ thời thiếu nữ…
Và
biết đâu, trời, nghĩ đến đây thì tim tôi run lên, tôi sẽ in được bước mình lên
dấu chân của một nhà thơ tôi hằng yêu thích, dẫn tôi đến được một căn nhà, cái
phòng, cái bàn, và khung cửa sổ, nơi thao thức cùng người thơ tài hoa yểu mệnh “hoa cỏ mờ hơi sương”? Tôi tự hỏi, nơi
ấy bây giờ có không, căn nhà kỷ niệm của nhà thơ Đi Chùa Hương? Nếu có, thì tôi
đem tất cả tấm lòng ngưỡng mộ nhà thơ ấy để biết ơn ai đã có một quyết định đầy
thi tính như thế. Còn nếu không, thì sẽ là nỗi phiền muộn của nghìn nghìn tấm
lòng cô gái nhỏ đã đi chùa Hương mang theo thơ Nguyễn Nhược Pháp trong lòng.
Tôi
biết, nếu bây giờ có đi chùa Hương, dù với mái tóc đã lưỡng lự trắng, tôi cũng
sẽ vẫn đi với trái tim của cô gái nhỏ cùng
thầy me em dậy, em vấn đầu soi gương, tôi cũng sẽ em không dám đi mau… tôi sẽ…, nghĩa là tôi sẽ y chang như cô gái
trong thơ Người, ôi Nguyễn Nhược Pháp. Anh bạn tôi nói, người ta bảo đi Chùa
Hương đủ ba lần thì sẽ được hạnh phúc. Đúng chăng? Tôi sẽ về, lời hẹn Chùa
Hương ơi. Ngàn điều có nói cũng chỉ để chở một vẫy gọi của giấc mơ chưa thành,
có duyên nào trong cõi đất trời đẩy đưa cho không, cõi hẹn của tôi?
Bỗng
một ngày, trong khoảng thời gian đang phải tập làm quen mọi thứ ở Mỹ này, tôi
bỗng lọt thỏm vào hai tiếng Ninh Hòa, trong một bữa tiệc nhà anh Uyển. Ninh Hòa
ư? - Tôi cũng quê ở Ninh Hòa - Tôi
nghe câu nói của mình vang lên và trong phút giây tôi bỗng lặng người, sao tôi
lại nhắc đến Ninh Hòa, trong khi xưa giờ khi nói đến quê nội, tôi thường dùng
địa danh Nha Trang hơn. Có lẽ âm của giọng nói hai tiếng Ninh Hòa quá giống
giọng ba tôi và làm tôi nhớ đến ông đang bịnh nặng ở Sài Gòn, ông vừa mới kể
cho tôi nghe lễ thượng thọ được làm ở nhà
quê, nhà bà nội, Đó là làng Thuận Mỹ, Ninh Hòa.
-
Tôi cũng quê ở Ninh Hòa- khi thốt lên
tôi muốn khóc. Nó như thể một câu đi tìm người thân vậy. Và người có giọng Ninh
Hòa kia đã tặng tôi một cuốn sách, rồi nói, vào
đây cho đỡ nhớ nhà, tôi rất thích chữ “Trang Nhà” trong những web hay dùng.
Nhà, nơi mình ở, mình quen, nơi che cho mình mưa gió nắng nỏ cuộc đời.
Và
tôi đã đi về nhà, như thế. Tôi biết ra rằng bên cạnh giấc mơ Hà Nội kia tôi còn
được bồng bênh một bình yên khác nữa là quê nội, cõi, vừa lãng đãng vừa hiện
thực, một giấc mơ bất cứ khi nào muốn là sống-với được. Là thấy mình đang ngồi
trong toa xe lửa từ Nha Trang về Thuận Mỹ, nơi có một cái hộp ga nhỏ xíu, không
gọi là nhà ga được vì nó bé dễ sợ. Chúng tôi xuống ở đó rồi men theo con đường
rầy đi xuống một cái dốc, đi, đến khi thấy một cây gạo rất cao ở đình làng là
tôi biết sắp đến nhà bà nội, cha tôi kể, có một con ma lớn, cao bằng cái cây đó
đổ bóng xuống con đường đất rồi nó ngáp một hơi thiệt dài trong đêm, làm hồi đó
mỗi lần đi qua anh em tôi hay nắm chặt tay nhau chạy, giờ nghĩ lại thấy đúng là
cha dọa con nít, ma có bóng ư? Chẳng biết.
Hồi
đó anh em chúng tôi hay được về quê, bằng xe lửa, (xin nhắn với Lương Lệ Bích San, nhân đọc một bài văn, tôi được biết chị
cũng quê ở Thuận Mỹ, có thể ông bà chúng ta có quen nhau, và nếu chị đồng tuổi
tôi, biết đâu ngày ấy đã chẳng có lần chúng ta ngồi chung một chuyến xe lửa,
một toa tầu?) cứ vào đêm trước cuối tuần, các anh thì xếp giấy thành hình
máy bay, tôi thì xếp thuyền. Để chi? Để ngày mai khi con tầu đi qua một cái cầu
nhỏ, chúng tôi sẽ thả chúng ra ngoài cửa sổ tầu, chỉ vậy thôi mà lấy về không
biết bao nhiêu là tiếng cười. Nhưng chả bao giờ tôi nhìn thấy được con thuyền
giấy đáp xuống dòng sông nhỏ dưới chân cầu. Nó bay đi đâu những chiếc thuyền
giấy mỏng mảnh của tôi? Phải chi ngày ấy tôi xếp cánh diều thì tôi sẽ nhìn được
nó bay lên, cho giấc mơ của tôi lộng gió. Trò chơi ấy lập lại suốt thời thơ ấu
mỗi khi sau bữa cơm tối thứ sáu, cha tôi bảo, mai cả nhà về quê.
Về
quê. Ngày ấy chỉ đơn giản là nỗi mừng vui được đi xe lửa, được chơi dông dài
hai ngày không bị học bài, được ăn đủ thứ trái cây, nhất là vú sữa, ở vườn nhà
nội.
Bà
nội tôi ngày ấy cũng đã già, theo ký ức 9, 10 tuổi của tôi, lưng bà còng nên
trông bà bé tí, chỉ nhỉnh hơn tôi chút xíu thôi, bà sống một mình ở căn phòng
thờ rộng, bà đi ra đi vào và thường lẩm nhẩm cái gì đó một mình, thỉnh thoảng
bà gọi tôi, cá cum, con ăn cum chưa
(tôi choắt lắm nên bà đã gọi tôi là cá cơm, còn anh Khải thì bà kêu, cá ồ,
không biết là con cá gì, anh Khoa, cá thu, chắc tại anh trắng và mạnh khỏe, mà sao toàn là cá vậy hả bà?)
Rồi
bà chỉ tôi nghiền trầu trong cái cối gì mà cũng bé xíu như bà, tôi không làm
được, thế là bỏ chạy đi chơi. Ngày đó tôi nghĩ bà buồn tẻ quá chắc, bây giờ thì
tôi nghĩ bà quả là một phụ nữ can đảm, chịu đựng u buồn từ thời trẻ đến cuối
đời kể từ khi ông nội tôi mất, kể từ khi bác Tám tôi bị chết thiêu trong một
nhà tù, kể từ khi cha tôi, đứa con út, đi học xa. May là bên cạnh bà còn có gia
đình bác Mười lớn, các chị họ của tôi đẹp lắm, nức tiếng từ Thuận Mỹ đến các
trường trung học ở Nha Thành. Bà như một cái bóng nhỏ loanh quanh căn phòng
rộng, thấp thoáng nâu giữa những hàng cây vú sữa, xoài, xanh um trong vườn,
trên tay cầm một con dao, hay cái rựa tôi chẳng biết. Và bà hay nói chuyện một
mình. Đó là hình ảnh tôi nhớ về bà nội.
Khi
gõ tới đây, tôi nghe tiếng mưa rơi ở ngoài thềm, gió thốc vào lạnh buốt, con
trai lại quên khép cửa sổ, tôi nói thành tiếng (hơi giống bà nội rồi) và đi ra
ngoài thềm, cụm hoa trâm trâm tím trong mưa, trời ơi, hay là hư bóng trâm ổi
bên vệ đường xe lửa từ ga Thuận Mỹ về tới nhà bà? Anh cả tôi cũng thầm thì Trâm
Trâm trong thơ của anh, xe lửa xa rồi
những bụi trâm trâm..., ngày đó, tôi hay buông tay mẹ để cúi xuống hít cái
mùi hăng hắc thơm, để mút từng cánh nhỏ đủ mầu ấy. Tôi nghĩ hoa trái nào mà
chim bướm ăn được thì tức mình cũng ăn được, và hay thử...
Mùa
xuân ở miền nam California bắt đầu bằng những ngày xám lạnh như hôm nay, mưa
dai dẳng buồn. Những tin tức chiến tranh nơi đây nơi kia và động đất ở Nhật làm
đông giá cảm xúc. Phải làm ngay những
điều có thể, câu nói ấy bây giờ thấy thấm thía nhiều lắm trước những chia
lìa mấp mé bên ngưỡng cửa cuộc sống. Phải nói ngay lời thương yêu với người
thân, bạn thiết, nhất là, ôm hôn cậu con đã lớn kia mỗi sáng. Tôi sẽ. Nhất là,
tôi sẽ mở được giấc mơ lung linh của tôi nữa, phải chạm mặt nó, dù một lần
trong đời…
Gần
nhà tôi ở bây giờ, trời thương sao có một nhà trồng một hàng tre, tre Calif.
lào xào nắng. Tôi đang mong nắng cho bớt sợ hãi về cơn bão dự đoán, anh bạn tôi
bảo, phải có nắng thì đời mới vui và
người ta mới có tinh thần được, anh nói hoài khiến tôi cũng tin thế, để
hàng tre kia có cái rì rào mùa hè, và mở ra mơ màng cho tôi con đường đất Chợ
Bến, nơi đẫm một mùi, gọi là hương được không, một mùi mà muốn trọn vẹn với nó
phải nhắm mắt lại...
...
mùi đất bùn khô dưới nắng, phải là nắng trưa oi nồng, cộng mùi đống rơm trong
sân gạch nhà, mùi cỏ, mùi phân trâu bò trên đường đất, quyện vào trong gió tre,
bạn ơi tôi mong là bạn cũng đã từng ngửi thấy để có thể chia sẻ cùng, tôi gọi
là mùi nhà quê, với tất cả thương yêu gắn bó, cũng giống như mùi đất xông lên
ngào ngạt sau mưa, cũng giống như mùi dưới cầu Trương Minh Giảng ở Sài Gòn tôi
bắt gặp một lần vào lúc 11, 12 tuổi khi ngồi trên một chiếc xích lô máy cùng
với bà ngoại. Biết nói sao, cũng như đâu thể cắt nghĩa rốt ráo được duyên và
nợ? Tôi cho những mùi ấy là “duyên nợ” của tôi, vì hợp với nhịp đập tim tôi,
rung động với tôi ở một tần số cao nhất của tâm linh, cho nên, nói như ai kia,
là chẳng lẽ mình mong quê nhà cứ lạc hậu mãi sao, thì thật là một kết luận hơi
oan ức, đối với tôi.
Lý
tưởng là, có đủ khôn ngoan, tinh tế để vừa phát triển vừa giữ được tiết tấu
riêng của Nhà Quê. Nhưng nếu, để đổi
lấy văn minh mà mất hết trơn cái nhịp, cái mùi gần gũi ruột thịt như thế, tôi
chọn, thà đi về trên con đê bên đường rầy xe lửa ngắt nụ trâm trâm mà hút mật
ngọt, thà trở lại quê nhà, tắm trong đêm dưới ánh trăng bên cái giếng gạch đóng
đầy rêu, cười khúc khích với người chị đang tuổi dậy thì, chị Bích ơi, em biết sẽ có ngày chị em mình lại về nhà nội và tắm khuya
bên bờ giếng ấy, phải là đêm có trăng để em thấy được những mảnh sáng bắn tung
tóe từ người chị, hẹn thế nhé, nhưng đừng dọa em, dưới giếng có con rắn thật to
nghe, mà cho dù thế cũng không cưỡng được em cái thích tắm dưới trăng khuya bên
giếng gạch cũ của bà nội đâu, chị Bích à.
Chỉ
đơn giản âm giọng Ninh Hòa, nghe được đêm ấy mà tôi được miên man Nha Trang…
Bây giờ nói về quê, không chỉ là một nơi chốn nữa, mà là về một cõi tĩnh lặng
với tha thiết rất riêng. Cũng với tâm trạng ấy tôi gõ vào trang nhà quê hương,
với nôn nao của một kẻ xa nhà lâu ngày đi về trước cổng nhà cha mẹ, hồi hộp gõ.
Và cửa đã mở.
Trâm trâm tím vàng và
tiếng xe lửa kéo con tầu cũ kỹ phía chân trời bên kia những cánh đồng lúa. Đó là hình ảnh biểu
tượng cho nỗi hoài hương của tôi.
Cũng
vào đêm tôi nghe nhắc đến Ninh Hòa, tôi nhớ đến cha tôi đang bịnh ở Sài Gòn,
hôm nay khi tôi viết những dòng này thì ông đã đi xa, xa hẳn rồi, mãi mãi.
Không bao giờ còn nghe nữa như hồi bé “ba
sớm về thôi mà” khi cha bước lên bực toa tầu…
Giờ chắc ba đang
thảnh thơi miền gió tre rì rào thơm, trong ánh trăng êm ả ngôi đình làng Chợ
Bến. Ba ơi, nơi giấc mơ xanh non đồng lúa quê nhà, trong bay bổng trời chiều
bình yên Thuận Mỹ, con biết ba sẽ đọc những điều con viết hôm nay…
NTKM
Santa
Ana, tháng 3.2011
(trích Bóng Bay Gió Ơi)
Về quê nội, Thuận Mỹ,
Nha Trang
Và quê ngoại, Phượng
Dực, Hà Nội
No comments:
Post a Comment