Saturday, May 30, 2015

ĐỌC TRONG SỔ TAY NGUYỄN XUÂN HOÀNG



Ba bài thơ mới tìm được của Mai Thảo

 

 

Anh Nguyễn Đăng Khánh, bào đệ của nhà văn Mai Thảo vừa gửi cho Sổ Tay ba bài thơ mới tìm được của tác giả Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền. Anh cho biết ba bài thơ này do anh Nguyễn Đức Chấn, cháu của Mai Thảo, tìm thấy tại Việt Nam hồi đầu năm 1999 khi Chấn về Sài Gòn đón mẹ sang Mỹ đoàn tụ cùng gia đình. Thư anh Khánh viết “Chấn đã cố tìm ở nhà chị tôi [mẹ của Chấn] nơi anh Mai Thảo thường tới ẩn náu khi bị chế độ mới truy lùng trong những năm 1975-78, một tấm ảnh mà Chấn đã chụp anh Mai Thảo với chị Kiều Chinh tại nhà hàng La Pagode. Mặc dù không tìm thấy tấm ảnh nhưng Chấn đã tìm được một tờ giấy trên đó anh Mai Thảo ghi ba bài thơ nhan đề Hình Tượng, Thủy Tinh và Kim. Sau hơn 20 năm, tờ giấy đã vàng, nét chữ đã mờ, rất khó đọc, nhưng vẫn là nét chữ của anh Mai Thảo. … Ba bài thơ trên xác định một điều: Anh Mai Thảo làm thơ từ nhiều năm trước đấy chứ không phải [mới làm thơ] vào những năm gần cuối đời với tập thơ Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền xuất bản vào năm 1989…”

Cùng với những bài thơ, anh Nguyễn Đăng Khánh gửi cho Sổ Tay tấm ảnh [màu] do nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh chụp Mai Thảo ngồi với thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Trên góc trái bức ảnh, dưới chữ ký của Cao Lĩnh, tôi thấy dòng chữ viết tay: Dưới thềm gác mây 1974.

Bức ảnh mà tôi đã có lần ghi trong Sổ Tay là đã nhìn thấy trên vách phòng anh Mai Thảo trong căn phòng nhỏ anh ở trên đường Bolsa, phía sau nhà hàng Song Long. Xin ghi lại nguyên văn ba bài thơ của anh như một tưởng niệm ngày anh qua đời và đồng thời là một đóng góp cho các nhà phê bình văn học những sáng tác còn bỏ quên của thi sĩ / nhà văn Mai Thảo:

hình tượng

Từ trong cửa tối nhìn ra
Thấy gần: bóng lá, thấy xa: biển trời
Lá lay, bóng cách ngăn đời
Biển im, hình tượng cõi người không ta.

thủy tinh

Trở mình chăn chiếu mênh mông
Giấc mơ chật hẹp vẫn trong cuộc đời
Mộng ta không xóa nổi người
Đáy đêm còn đọng tiếng cười thủy tinh.

kim

Miếng da bịt mắt thành đêm
Cây kim khâu miệng thành im lặng mồ
Tay chân, dây trói bao giờ
Da, kim, dây ấy bây giờ là ta.

Khẩu khí ấy, chữ nghĩa ấy không thể là ai khác, ngoài Mai Thảo.

Tôi vẫn thường nghĩ Nguyễn Đình Vượng là cha đẻ của tạp chí Văn, và Mai Thảo là người đã tiếp sức nuôi nó lớn lên. Văn không có mặt nếu không có cụ Vượng và Trần Phong Giao. Nhưng Văn không thể tồn tại đến hôm nay nếu không có Mai Thảo.
NXH
(trích Sổ Tay Nguyễn Xuân Hoàng. từ T. Vấn & Bạn Hữu)

BÀI THƠ TẾ SỐNG BẠN GIÀ



trầnphùthế

                      

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
*gởi trànguyễn

hôm nay ta làm thơ tế sống bạn hiền
bởi hai ta tới tuổi này đã lời quá cỡ
ngủ một đêm ngày mai ta hết thở
thì lấy ai đọc thơ trước quan tài

ta biết ngày xưa bạn làm nghề “tháo giày”
tháng tư bảy lăm thành người “mất dạy”
ta thằng lính chưa đánh trận nào
đành bỏ ài
bẻ súng ném lên trời khóc thảm cười khan

bếnhải càmau đầu quấn khăn tang
đất tự do đắm chìm trong đêm tối
kẻ ác xuống rừng ngập đầu tội lỗi
những đòn thù rướm máu cả miền nam

tin kẻ gian, ta tự nguyện vào trại giam
cuốc đất phá mìn trồng khoai sắn
ngày lưng chén cơm nước muối lạt, mặn
dêm về bụng réo cõi trống không

bạn cũng như ta đời sống cùm gông
án chín năm tù khổ sai trong lao nhục
tội vượt biên (?) trò hề của pháp luật
tòa án này đích thị của ác nhân

một ngày một giờ một tháng một năm
bạn nhất định tìm đường sống
trong cõi chết
vượt trại tù vẹm coi như là tử biệt
nhờ suối rừng che chở đã thoát thân

suối đồnghòa chiều lạnh giá băng
tiếng thú hoang gào kinh hồn sởn óc
bốn ngày đêm núi rừng cô độc
bạn trầm mình lội dưới ánh trăng

về tới sàigòn như đứa con hoang
không nhà cửa thay tên đổi họ
sống trên quê hưong còn thua con chó
chó có nhà còn bạn mất quê hương

bạn gặp may ông trời còn thương
trên đưòng lánh nạn nhờ người giúp đở
sáng ở lăngông chiều câydaxà
đêm ngủ sạp chợ
mai cầnthơ mốt rạchgiá rồi lại longxuyên

mười tháng dài bạn chạy trốn liên miên
những đêm chờ mỏi mòn
cuối cùng ra biển
trời nước mênh mông đâu là bờ bến
phó mặc cho trời hai chữ xui hên

rồi cũng qua ngày mới mặt trời lên
bình minh mĩm cười với người khổ nạn
hai mươi tám năm hít thở tự do
đời ơi sướng chán
xin cám ơn hoakỳ đất nước bao dung

tuổi bảy lẻ hai bạn thọ quá chừng
một hôm hứng chí ngồi rung đùi
làm di chúc
khi ta chết vợ con đừng khóc
đừng rình rang tổ chức lễ tang

thân xác ta xin hiến tặng nhà thương
để giúp cho những người cần nội tạng
để biếu cho những người cần cái mạng
ta rất vui khi hết thở
vẫn có ích cho đời

đọc di chúc bạn, ta cảm khái tình người
sống trọn đạo, chết đầy lòng nhân đạo
bạn vốn biết xác thân chỉ là manh áo
manh áo nào không mục nát với thời gian

hôm nay ta làm thơ tế sống bạn vàng
coi như bắt tay tạm giã từ hằng hữu
coi như hơn mười năm quen nhau
vẫn còn chưa đủ
ta hẹn bạn hiền mai mốt cõi hư vô .

tpt
(5/8/2015)
                              


KIỀU VỌNG . MỆT THÌ NGHỈ . GIẤC THÙY



hoàng xuân sơn


As Evening Falls. by Jo Davenport

kiều vọng
                                                tặng thiền thi Thanh Lam

người về.  nhín đỏ rêu xanh
là khi tường đã thập thành cơn đau
tội mây chưa, bạc mái đầu
ngày đi viễn thức muôn mầu luyến lưu
quyên ca lấn cấn giọng chiều
ngồi bên tê vọng nghe thiều đổ mưa
một mành hoa trắng không mùa
chìm trong sư tịnh niềm thua được còn
đeo mình với bóng sắc son
một mai thuyền lạ khúc ròn thuỷ tinh
một hôm.  đường nhớ khúc quành
chuỗi buông tràng hạt thuần thanh vết tình
lam kiều ở ngọn phong linh

23 mai 2015


mệt thì nghỉ

làm thơ mệt nghỉ em ơi
khoanh lại một chỗ ngồi rồi ở không
ta cũng ví như cánh đồng
có lúa thì mọc có bông thì trình
làng buồn nhớ xóm u minh
nhớ người thất lạc ôm tình bỏ đi
làm thơ.  lạnh lắm xuân thì
nóng hừng hực lửa sân si cuối đời


giấc thùy
                                        không một chỗ về trú
                                                quê nhà khô nắm tay

người ngồi.  với nghi thức.  lâu
nghe kinh trú niệm chín mầu như lai
bữa trưa.  sợi nắng vươn[g] dài
len qua cửa ngọc lên đài tịnh sen
người ngồi.  với dáng rất quen
là nhân thân của ánh đèn lưu ly
sáng trong nhau cũng lạ kỳ
cũng lan với tối cũng thùy với trăng

hoàng xuân sơn
tháng năm mười lăm

CÁNH VẠC PHƯƠNG ĐÔNG



Đoàn Minh Đạo
 
Cánh vạc bay
Tôi như cánh vạc di trú
Vượt ngàn trùng
Từ những rừng tràm ngập nước phương Đông
Chao cánh đón bình minh bến bờ xa lạ
Xin chào những bờ đá dựng, những cánh rừng trùng điệp tinh mơ
Chào Big Sur ẩn hiện giữa sương mù
Đã mơ hồ diễm lệ
Mặt trời lên, vút rực sáng hồng xóa đêm vũ trụ
Phơi vịnh thơ bãi cát ôm bờ
Từ Partington vòng kín mật ánh qua Vịnh Ngọc sóng điệp trùng
Biển Thái Bình kỳ vỹ
Rưng rưng tùng bách nắng rừng tự do
Rộn ràng vòm lá
Hãy cùng tôi hợp xướng
Nào sẻ lam điền, chim chích thiên thanh
Đây bài ca như cơn lốc vóc hình
Ngược về bình minh nguyên thủy
Lướt trên rừng nguyên sinh
Suối thác tinh tuyền
Hãy dựng lều trên bãi cát tiết trinh chưa một lần đạp dấu
Em thiên nga bản địa
Nhan sắc diễm kiều
Buông thả trôi giữa dòng sông êm đềm ở Big Sur
Vươn cánh thần tiên trong vũ điệu tình thơ
Bay vút trời xanh
Thăm thẳm thiên thu
Vào trời hoang vắng
Tôi ngưỡng mộ hoa rừng nắng
Hiển dương thác đổ sáng thông vàng
Arroyo Seco đồng xanh cỏ dại hoa ngàn
Lên cao ngàn bộ ta nằm thở
Hồn bay theo bước da đỏ mênh mang
Thủy ngạn hoa rực rỡ
Thả trôi đi trôi đi ở Molera
Xa vắng mãi sông muôn đời giao phối biển.
*
Ôi cánh rừng trầm mặc
Vẳng tiếng chuông buông giữa hư không
Nhớ thương trời hoài niệm
Dòng sông trầm mình tuyệt tích đời tôi
Dòng sông nào từ mười năm trước
Tôi đã đau chất ngất lời thơ
Qua Tang Càn
Trời Tinh Châu mà nhớ Hàm Dương *
Hai mươi năm tôi thở hương Rừng Tràm
Ở Thất Sơn
Chiếc thuyền lá trôi
Hai mươi năm vẫn xuôi hoài trong mộng mị
Rừng Đước Cà Mau
Tôi đã mắc đời tôi trên chiếc võng chiều
Ôi điêu linh dập dìu thân vạc
Hải ngạn nào lặn lội mưu sinh
Xin một khắc vợi
Ươm nắng vàng dưới tán sồi nâu
Nhớ từng cung sầu Cổ bản
Dạo Tứ đại oán
Hận tiếng đàn tài tử đa mang
Ôi những em di điểu
Cánh sẻ đất chàm
Nhạn duềnh đá ngang trời bay liệng
Vang vang tiếng đời trống vắng nắng nghiêng
Cứ hót đi mùa xuân về hoa nụ thiếu niên
Làm sao các em hiểu
Tiếng thập lục huyền xé lòng tôi điệu Nam ai
Ôi thập giá đời
Bóng đổ nặng xuống vai
Thương ai lưu lạc.
*
Tháng Năm tháng Năm như loài cá voi xám trở lại Bering
Loài thiên nga lãnh nguyên di trú
Chào Big Sur ta xoãi ngược cánh chiều
Bay xiêu lạc về rừng tràm
Ta biết quá khứ mãi buồn, xin dạo một khúc Xuân
Vẫn cần trở lại
Như kẻ tìm phần mộ mình
Sau một đời mệt mỏi
Nếu ai tự hỏi
Cũng một lẽ hằng!

ĐMĐ
2011.

 *.  Ý  thơ Độ Tang Càn, Giả Đảo .