Đoàn-Minh-
Đạo
Abbey of New
Clairveau
Gió ngỡ ngàng
xoáy đáy vực
Thất lạc mù
sương
Tăm tối đêm tăm
tối ngày biệt dạng
Kỳ vọng hụt hẫng
mùa trăng non
Xào xạc xác rừng
Rưng rưng gió
nguồn tịch mịch
Lãng đãng mưa
Tiêu trầm cõi
người hoan lạc
Ngồi đây ngồi
đây em
Ta bắt đầu một
ca khúc
Từ ngoại thành
cẩm chướng
Từ tảng đá góc
tường
Từ nỗi đời dao
động
Từ vật vã mù
sương
Từ trà quán
lung linh ngục thất
Từ phát tán chảy
vào ngày vĩnh quyết
Từ những Châm
Ngôn đọc miết trong trang Kinh Pháp Cú
Từ tiếng thét
hú của Không Lộ, Kapleau ta chứng nghiệm trong thực hành
truyền thống
Eckhart
Từ thiền hành
và chiêm niệm
Con đường dài
không thẳng tắp vô biên
Mười tám tuổi
ta làm tên sát thủ ta
Hụt
Tại thiền viện
những tu sĩ Jesuits
An vị trên tọa
cụ và thiền trượng rảo sau lưng
Cùng một linh
thất
Hãy thiền hành
và chiêm niệm
Dọc những hàng
cây Ume mùa trổ đào hoa rực nắng
Chiến tranh ngửa
mặt
Thiền hành qua
những đồi máu đỏ quạch cả địch ta vô ngã
Thiền hành qua
những làng xóm đỏ rực lửa lũy tre cả Nam Bắc vô phương
Thiền hành qua
những nẻo đường Los Angeles tìm xóm di dân Chávez Ravine mà tư bản đã xóa dấu
tích hay đất đai vô sản chiếm đoạt bằng thích sở hữu toàn dân vô sở trụ
Thiền hành qua
Wall Street cắm dùi tạm bợ vô trú xứ
Thiền hành khi
phong kiến tiếp thu vô sản ở vài rẻo đất còn lại vô niệm
Thiền hành khi
vua chúa vô sản và CEO tư bản thoả hiệp vô ưu
Thiền hành ta lại
bơ vơ trong tiếng đàn fortepiano
Niềm hân hoan
Sonatas của Mozart làm sao hé lộ
Trắng một đồi
sương
Ta tìm những
ngày từ tốn
Tiếng đại hồng
chung lan tỏa núi rừng
Chiều thu không
bên vạt trà xanh sau Linh Sơn Tự
Cùng Nishio
Trung Trang bạt ngàn rừng trúc
Chung trà khói
tỏa lan tịnh cốc
Hồn tre trúc
xanh xao
Đắm đuối bay
Mưa Saratoga
Huynh nhắc lời
ta ca hát
Ubi caritas et
amor
Deus ibi est 1.
Cũng vậy ta thầm
nhủ
Nơi nào có từ
bi
Nơi đó có Bụt
Ta đi tìm một đạo
tràng ngút nẻo lạc viên vào Pró
Đầm nước trong
soi bóng những tàng cây quanh bờ hội ngộ
Tiếng rì rào vườn
bắp trổ cờ trong gió cuồng mê
Hắt hiu ký ức
tím chiều về
Đi thăm người
đan sĩ Mathieu
Người đã cho ta
ánh sáng đèn chiều muộn
Quay đều suối rừng
guồng nước thời gian
Hoài âm thầm lặng
trang kinh
Người đã kéo phục
sinh máy ủi Allis Chalmers rơi sâu lòng vực
Kiên khổ cả
năm, tháo từng con ốc !
Lao động bài
kinh dài vô tận
Ora et Labora
Chiêm niệm với
thần linh hợp nhất thân nho
Chiêm niệm mịt
mù ngút bờ tội lỗi nhưng ta vẫn chẳng lìa
Chiêm niệm nắng
úa vàng một cõi thơ
Chiêm niệm heo
hút âm vang bến bờ sinh tử
Chiêm niệm người
khổ tu lao động trải bảy thời kinh một ngày miền cố thổ huyền vi
Chiêm niệm sinh
thì chiếu ván đơn sơ với lòng thương xót
Chiêm niệm vòm
cung năm cửa cao vút trong trí tưởng
Chiêm niệm tái
tạo từ gạch đá đổ nát Đan viện Thánh Mẫu ở Ovila
Chiêm niệm mồ
hôi trên từng tảng đá kết hợp tại New Clairveaux2. tái hiện quá khứ tám thế kỷ Hội đường đan sĩ
Chiêm niệm ta cần
mẫn với an bình tình thương và lòng dung thứ
Chiêm niệm xin
ngồi cùng anh dưới bóng khuynh diệp bên dòng sông trôi quá khứ tương lai
Chiêm niệm xác
thân ta xin quỳ rửa chân anh để mời anh ngồi vào bàn ăn vì đường còn dài và
ngày đã tận
Qua thu phân êm
đềm trở về mùa thu hoạch nho và hồ đào ở Vina
Ta lại lang
thang mót lượm trong những vườn lê
Ở Walnut Grove
trái chín sót trải thềm cỏ đường về
Dòng sông
Sacramento êm đềm xanh mướt liễu
Đan viện mới nối
cành nhánh chiều viễn xứ với cố hương
Ta nguyện mọc
lên một đạo tràng tình thương
Ta nguyện qua
bàn tay cày cuốc xin đất sữa và mật chảy tuôn
Ta nguyện rèn
lòng giáo gươm thành lưỡi cày
Ta nguyện đừng
đọa đày trong hữu và vô
Ta nguyện khiêm
cung cùng Mahatma3.
Ta nguyện đừng
sở hữu những gì không cần thiết
Ôi những dòng
sông chảy xiết từ lịch kiếp thời không
Ứa nước mắt
trong hoang lạnh cõi người
Nếu có một tiếng
cần nói ở cuối đời
Xin là tịch mịch
!
ĐOÀN-MINH-ĐẠO
.
1.
Latin : Nơi đâu có bác ái và tình
thương, Nơi đó có Thiên chúa . .
2.
Khổ tu viện Xitô ở Vina, California nơi đã tái dựng lại Hội đường Đan viện
Ovila, Spain thế kỷ XII từ những viên đá đổ nát chở sang Mỹ .
3.Mahatma
Gandhi, lời cầu nguyện mở đầu trong Lettres à l'Ashram .
No comments:
Post a Comment