Thursday, January 1, 2015

TRUYỆN NGẮN Ý NHI




Món quà
  

 Seated man. Paul Cezanne
    
      9 giờ sáng. Đúng vào lúc ông định mở TV để xem chương trình thời sự thì có tiếng chuông gọi cửa. Ông luống cuống làm rơi chiếc remote xuống sàn nhà bằng gỗ màu nâu sẫm. Từ ngày ông đến nơi đây, chưa hề có một tiếng gọi, một cuộc thăm viếng nào vào giờ này.
     Ông hé rèm cửa sổ, nhìn xuống. Người bưu tá cao lớn gật đầu chào, cầm một gói bưu phẩm đưa lên cao, nói câu gì đó mà ông không nghe rõ.
     Gói bưu phẩm khá nặng, ghi rõ họ tên, địa chỉ, số phone của ông. Chỗ tên, địa chỉ người gửi bị nhân viên bưu điện nào đó vô ý đóng con dấu hình chữ nhật có màu mực đen đè lên nên không thể đọc được. Cố lắm, cũng chỉ có thể nhận ra những chữ a, chữ n, chữ x rời rạc, lạc lõng, vô nghĩa. Ông lưỡng lự một chút rồi lật bật mở gói quà. Các cuốn sách rơi xuống sàn nhà, nằm cạnh chiếc remote TV.
     Ông ngồi xuống để nhặt các cuốn sách, bất thần ngã bật ra, đầu chạm vào cạnh bàn nước đặt giữa phòng khách. Ông ngồi yên như thế, đầu tựa vào bàn, chân co lên, tay buông thõng trên đầu gối, mắt chăm chắm nhìn xuống sàn nhà, nơi những khối hình chữ nhật chập chờn xê xích, khi gần khi xa, lúc tỏ lúc mờ.

      Đó là 2 tập truyện ngắn và 3 cuốn tiểu thuyết, năm trong số những tác phẩm của ông được in trong khoảng thời gian gần hai mươi năm, từ 21 đến 40 tuổi.
      Tập truyện đầu tay được một họa sĩ nổi tiếng vẽ bìa. Trên nền lam sẫm, dòng chữ Đi về phía núi màu trắng nổi bật với nét bút thanh mảnh, mềm mại. Hẳn họa sĩ đã đọc qua vài ba truyện trong tập, những câu chuyện tình cảm ngọt ngào, những mơ ước, những nhớ nhung, những chờ đợi của tuổi mới lớn. Trong sách còn có lời tựa của một nhà văn cũng nổi tiếng. Nhà văn cho rằng giữa thời buổi đầy biến động của xã hội, của văn đàn thì đây là một vạt cỏ xanh non, một dòng nước mát, giúp cho lòng người dịu nhẹ. Tất cả những việc đó đều do giám đốc nhà xuất bản KS, ông VT thu xếp. VT viết văn không hay nhưng rất nổi tiếng trong giới xuất bản bởi sự hào phóng, tình cảm chân thành và sự ngưỡng mộ tự nhiên của VT dành cho giới viết lách. Ông còn nhớ, sau khi kỳ cạch đánh máy bản thảo, ông quyết định giữ lại chín truyện. Thực ra cũng có thể chọn thêm vài, ba truyện nhưng ông vốn thích các số lẻ, nhất là số 9. Mấy ngày liền, ông đạp xe đến nhà xuất bản, đứng ngẩn ra một lúc rồi lại quay về căn nhà trọ ở ngoại ô, nằm đọc lại các câu chuyện của mình, lúc bằng lòng, lúc bất mãn. Cuối cùng, ông gửi bản thảo qua đường bưu điện và ngày nào cũng ngồi trước cửa, ngong ngóng chờ người đưa thư đi ngang qua xóm trọ. Ông đã gần phát khóc khi nhận được bức thư mời đến gặp vị giám đốc. Chàng trai trẻ bước vào căn phòng nhỏ bày bộ sa- lon cũ kềnh càng, lòng nghẹn ngào đến ngạt thở. Giám đốc VT còn khá trẻ và rất lịch sự trong bộ vest màu xám. Giám đốc ra tận cửa dắt ông vào, ấn ông ngồi xuống ghế, mỉm cười nhìn ông, em đừng sợ. Tập truyện của em rất khá. Tôi sẽ cho in ngay trong quý này. Giám đốc đưa ông đi làm hợp đồng, vỗ nhẹ vào vai khích lệ, em làm việc chăm chỉ nhé. Tôi tin em sẽ thành công. Nhiều năm sau, tim ông vẫn thắt lại mỗi khi nhớ đến buổi sáng thần tiên đó, nhớ đến ánh nhìn tin cẩn, giọng nói ấm áp của vị giám đốc dành cho ông.

      Dù vậy, phải 5 năm sau ông mới có thể in tập truyện thứ 2 của mình với tựa đề Đêm.
Năm năm, thời gian của những mất mát tình cảm, của nỗi thất vọng về thời cuộc, của những ngày lang thang cơ cực, của sự chuyển biến tâm trạng từ một thiếu niên sang kẻ trưởng thành, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong các câu chuyện. Lúc này, nhà xuất bản KS đã phá sản. Nhiều người cho rằng nguyên cớ chính là sự tốt bụng của giám đốc VT, người đã ứng tiền vô tội vạ và trả nhuận bút cao ngất ngưởng cho đám nhà văn luôn luôn túng thiếu. Gặp ông, vị giám đốc cười buồn, tôi đợi cậu lâu quá nên chồn chân mỏi gối rồi. Ông bùi ngùi, cuộc đời là một chuỗi những thất bại, những lo âu mà. Vị giám đốc cười, đặt hai tay lên vai ông, như một người cha đặt tay lên vai đứa con trai của mình, cậu đã lớn thật rồi, tôi đợi đọc cậu. Khi nhận tập truyện Đêm, ông đi thẳng đến nhà vị giám đốc để tặng cuốn sách đầu tiên. Ông VT đang nằm trên ghế xếp trước hiên nhà, đọc truyên chưởng Tàu, vẻ mãn nguyện, thứ văn chương này sẽ tồn tại rất lâu đấy cậu ạ, đã bập vào là quên hết sự đời. Rồi ông bật cười ha hả như một kẻ vô tư lự.
      Đêm được chào đón như một sự kiện văn học lúc đó. Trong một lần ngồi uống café tại La Pagode, nhà văn T, vốn là kẻ ăn nói sắc sảo, nheo mắt nhìn ông, cỏ đã úa, suối đã vẩn đục, ngày đã tối rồi. Ấy đấy, chẳng ai có thể nhẩn nha nhìn mây ngắm gió mãi được. Thấy ông mỉm cười im lặng, ông ta vừa nhồi thuốc vào tẩu vừa nhấm nhẳng tiếp lời, cậu đã bắt đầu đặt chân trên mặt đất bụi bặm, gai góc này rồi đó. Nói cách khác, cậu đã nhập bọn với chúng tớ, những kẻ khốn khổ. Ông hiểu, có thể đó là một sự đánh giá văn tài mà cũng có thể chỉ là kiểu khen tặng của bậc đàn anh cho người mới vào nghề. Ông nhã nhặn cám ơn rồi rời quán. Ông sống một mình, ít khi tham dự vào các cuộc gặp gỡ, hội hè, bù khú của các nhà văn thời thượng. Ông không uống rượu, không đến trường đua, không chơi mạt chược, không tán tỉnh các nhà văn nữ. Ông biết, khi có ai đó trong đám nhà văn nhắc đến gã thầy tu chính là họ đang nói đến ông.

      Giữa lúc này ông gặp Diên, người vợ đầu tiên. Diên là cô giáo dạy tiếng Anh ở trường cấp hai. Hàng ngày, nàng đi ngang qua nhà trọ của ông để đến ngôi trường gần đó. Nàng mặc những chiếc áo dài màu sẫm, tóc buộc gọn sau gáy, để mặt mộc. Nàng không hề biết có người ngồi sau ô cửa màu xanh kia nhìn ngắm mình. Sau này, khi nghe ông kể lại, nàng đỏ mặt, sao anh ác thế. Cuộc sống chung của họ êm đềm, giản dị. Họ có ba đứa con, một trai hai gái. Diên chịu thương, chịu khó, kiên tâm gầy dựng nền nếp gia đình. Căn nhà nhỏ nằm trong hẻm sâu lúc nào cũng sạch sẽ, ngăn nắp.Các con của họ lễ phép, học hành tử tế. Diên vẫn mặc những chiếc áo dài màu sẫm, tóc vẫn búi sau gáy, vẫn đi lại nhẹ nhàng, nói năng nhỏ nhẻ nhưng áo ngày một rộng ra, tóc ngày một thưa đi và giọng nói, tiếng cười đã không che được nỗi mệt nhọc. Đôi khi, nhìn vợ, ông có cảm giác như nàng đi không còn vững nữa. Không đành lòng, ông gác hết công việc đang làm, chuyên tâm viết các bài tường thuật sự kiện văn hóa, các bài bình luận văn chương, các bài điểm sách, dịch tin tức văn nghệ nước ngoài…cho các báo, các tạp chí để kiếm tiền độ nhật. Những món nhuận bút nhỏ nhoi chẳng bù đắp được bao nhiêu cho cuộc sống gia đình nhưng mỗi khi ông rụt rè đưa tiền cho vợ, bao giờ bà cũng vui vẻ, tốt quá, đúng lúc em đang cần. Thường thì bà chỉ dùng khoản tiền này để mua những cuốn sách mà ông muốn có. Khi đứa con trai út lên hai, Diên xin nghỉ dạy, cùng người chị mở một sạp vải nhỏ. Diên nói với ông, giọng như dỗ dành, thôi, anh đừng viết cho các nhật trình nữa. Nhiều năm sau, khi bà đã mất, khi ông đã có một cuộc sống khác, ông vẫn như nghe thấy giọng nói của bà đêm hôm ấy, giọng nói chất chứa tình yêu thương, niềm cảm thông, sự chờ đợi. Diên đã đem cả cuộc đời mình đặt vào những trang viết của chồng.
           
     Các nhân vật của ông thường là những người đàn ông ở tuổi trung niên, tuổi đã có một gia đình nhỏ.
     K, nhân vật chính của Cánh cửa là một bưu tá. Hàng ngày, anh đến sở làm, nhận thư từ rồi đạp xe đi phân phát cho các gia đình trong một xóm ven sông. Lời hò hẹn, lời từ biệt, thư thăm hỏi, thiệp báo hỷ, giấy báo tử…trĩu nặng chiếc túi vải bạt anh mang bên mình. Anh quen biết tất cả mọi người trong xóm nghèo đó. Anh chia vui cùng họ, trò chuyện, an ủi họ, dỗ dành họ, khuyên nhủ họ. Anh vắng mặt một ngày cả xóm đã nháo nhác lo âu. Anh thường kể cho người vợ và đứa con gái những câu chuyện của cư dân xóm ven sông ấy. Ngày tháng của anh cứ trôi qua bình yên như vậy, cho đến ngày nọ, khi người ta chuyển anh đến một khu vực khác trong thành phố. Những con phố rộng rãi, những tòa nhà đồ sộ,  những cánh cổng sắt kín bưng như những bức tường, những hòm thư lạnh lẽo, vô cảm khiến anh buồn bã, nhớ tiếc chốn cũ, nhớ tiếc những cánh cửa bằng ván, bằng tôn, xiêu vẹo, chắp vá, khép hờ trước mỗi căn nhà, nhớ tiếc những con người. Nỗi nhớ tiếc dai dẳng khiến K  bần thần, ngơ ngẩn. Khi anh có dịp trở lại khu phố cũ thì tất cả nhà cửa đã trôi đi trong trận lở đất và mọi người đã tan tác, mỗi người mỗi xứ. M, nhân vật trong Phố phường là một anh chàng chạy xe tac-xi nghèo khó. Sau khi giải ngũ, anh được cha vợ cho một chiếc Peugeot cũ. Hàng ngày, anh chạy xe để kiếm tiền nuôi vợ con. Anh thương chiếc xe như thương một con người. Anh trò chuyện cùng nó nhiều hơn với bất cứ ai. Mỗi buổi sáng, anh đến bên nó, nào, lên đường cha nội. Gặp khách vẫy gọi, anh reo khe khẽ, hên rồi cha nội. Lúc ế ẩm, anh đậu xe dưới bóng cây, thôi, nghỉ một chút cho lại sức nghe. Khi vợ đau yếu, anh than thở, bữa nay phải chạy tới khuya đó, ráng lên, kiếm mấy đồng cho bả uống thuốc. Mà mày đừng có đổ bịnh giống bả đó nghe…Anh chạy xe khắp thành phố. Một khách du lịch có thể theo dấu những chuyến đi của M để nhìn thấy những con đường, những góc phố, những ngôi chùa,những tòa nhà cổ kính, những vòm cây, những nhà hàng đặc sản, những quán ca-phê, những khu chợ …Có người đã gọi Phố phường là một cuốn cẩm nang du lịch. Nhưng bao phủ lên các trang viết vẫn là tâm trạng lo âu, thấp thỏm trong cuộc mưu sinh của người tài xế. Câu chuyện kết thúc vào một đêm mưa vắng khách, M ngồi sau tay lái, nhìn ngọn đèn chập chờn trong khóm lá. Anh nói với chiếc xe cà tàng của mình, cha thấy không, cuộc đời này là một cuộc chiến kỳ cục. Không bom rơi, không đạn réo mà lúc nào mình cũng cảm thấy tai họa rình rập, treo lơ lửng ngay trên đầu. Ngày muộn khi xuất bản được giới phê bình coi là tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Mặc dù không thực sự tin vào điều đó, ông nghĩ ông đã gặp may với cuốn sách khi nó được tái bản ngay sau đợt phát hành đầu tiên. Người ta bàn tán về câu chuyện của nhân vật chính, H, một nhạc công. H đi làm từ 9 đến 12 giờ đêm mỗi ngày trong một quán ăn lớn. Khi xong việc, anh đi bộ về nhà, lang thang qua những đường phố đã lặng im như chết. Rời bỏ cái quán ăn ồn ào như ong vỡ tổ, nơi hầu như không thực khách nào đoái hoài đến tiếng đàn của anh cũng như giọng hát của các ca sĩ, anh cảm thấy những giờ phút một mình giữa đêm, lặng lẽ đi dưới những tàn cây là những giờ phút thần tiên. Anh thuộc từng góc phố, nhớ từng ngôi nhà, từng loài hoa, từng mùi hương cỏ cây trên chặng đường ấy. Thế rồi, cuộc đời anh bất ngờ thay đổi khi gặp V. Đêm đó, khi anh vừa băng qua đường thì trông thấy một cô gái đang ôm đầu ngồi dưới trụ đèn cao áp, gần nhà mình. Anh dừng lại bên cô. Cô gái ngồi im, vai rung lên nhè nhẹ. Anh đã định bỏ đi, không hiểu sao lại hỏi, cô có cần tôi giúp gì không. Cô gái khẽ lắc đầu rồi òa khóc, anh thì làm sao giúp được tôi. Anh đùa, tôi có phép màu đấy, tôi chỉ cần vung tay một cái là mọi sự thay đổi lập tức. Cô gái bật cười. Anh bảo, đấy, cô chẳng đang khóc lại cười đó sao. Cô gái thuận theo anh trở về nhà cha mẹ. Họ đi bộ xuyên qua thành phố như hai kẻ lang thang vô định, không nói thêm cùng nhau một lời nào. Anh mơ hồ nhận ra thời khắc của một thay đổi lớn lao trong cuộc đời mình. Hóa ra cô bị cha mẹ ép duyên. Cha mẹ cô mừng rỡ đón con gái, năm lần bảy lượt cám ơn chàng nhạc công. Họ nên vợ nên chồng, ba năm sinh hai cô con gái kháu khỉnh. Anh chạy lòng vòng tìm việc nhưng rồi đành quay lại quán ăn với những tiếng đàn lọt thỏm trong ồn ào hàng quán và đêm đêm lại ra về trên những con đường đã im ngủ. Có điều, không còn những giây phút thanh thản kỳ diệu nữa. Cuộc mưu sinh kéo anh về với bước đi ngày một nặng nề trên con đường cũ…
     Người ta gọi những nhân vật của ông là loại nhân vật nhỏ bé, loại nhân vật không tên tuổi, không tiếng tăm, không biến cố. Họ là bất cứ ai trong đám đông ngoài kia. Những mơ ước, những lo âu, những chờ đợi của họ thật bình thường, thậm chí tầm thường. Người ta bảo văn của ông dẫn dụ người đọc như tiếng rì rầm của những cơn mưa nhỏ về đêm. Người ta bảo không thể kể lại câu chuyện của ông nhưng cũng khó rời bỏ cuốn sách khi đã cầm nó trên tay. Người ta bảo ông là nhà văn không có tham vọng, người ta bảo ông là kẻ yếm thế…Ông nghe thấy tất cả những điều đó với một thái độ bình thản. Khi một nhà văn trẻ hỏi ông về kinh nghiệm, ông cười, hãy viết những gì bạn muốn viết, theo cách mà bạn thấy hợp lý. Sau khi thành danh, nhà văn trẻ đôi lần nhắc đến lời khuyên của ông.

      Cuốn sách sau cùng, Giữa khuya, ở trang nhất có lời đề tặng:Tặng Diên. Đây là cuốn sách duy nhất mà nhân vật chính là một phụ nữ. B mang nhiều nét của Diên, người vợ mà ông vô cùng yêu thương. Sau này, khi nhớ lại, ông cho rằng trong tháng ngày ấy, cách nào đó, ông đã cảm thấy cuộc chia lìa của họ và muốn viết một cái gì cho chính vợ ông, về chính vợ ông. Cuốn sách in ra được 2 tuần thì xã hội có biến động lớn.Vợ ông, vốn là một phụ nữ mẫn cảm và thực tế, lặng lẽ cho đóng gói toàn bộ sách vở của ông và một ít vải vóc chuyển về quê gửi ở nhà cha mẹ đẻ. Rồi chỉ ít lâu sau, mẹ vợ ông lại đem đốt hết chỗ sách vở, chỉ giữ lại mấy súc vải, phòng khi khó khăn. Ông không thực sự hiểu việc làm của hai người phụ nữ nhưng ông  tin rằng vợ ông đã làm những gì cần phải làm để bảo vệ gia đình, bảo vệ chính ông.
       Không tham chiến, không tham chính, ông gần như bị bỏ quên trong cảnh hỗn loạn của buổi giao thời. Giữa lúc ông còn hoang mang nhìn thế sự thì vợ  ông gom góp vốn liếng để chuẩn bị cho chuyến đi của cả gia đình. Bà thoắt đi thoắt về, chạy đôn chạy đáo, mắt trũng sâu, người gầy rộc, cả ngày chỉ nói với chồng con vài câu. Thế mà, đúng ngày ra đi thì ông bị cảm nặng, nằm li bì, không sao gượng dậy. Vợ ông đành để đứa con gái thứ 2 ở lại chăm sóc cha, chờ chuyến đi tiếp theo. Bà dắt đứa con gái lớn và đứa con trai út cắm cúi ra đi giữa đêm. Những ngày chờ tin dài vô tận trong lo âu, thấp thỏm. Ba ngày sau ông được tin chuyến tàu của vợ con ông gặp bão ngoài biển, không biết ai còn ai mất.
       Một tuần sau, người hàng xóm tơi tả trở về, thì thầm báo tin không thấy vợ con ông trong số người còn sống. Ông chết sững, không thốt lên lời nào. Đứa con gái nhỏ vừa khóc vừa lay gọi bố, rồi nó thỉu đi trong vòng tay của cha.

     Đứa con gái là nguyên cớ duy nhất níu giữ ông. Hai cha con bán dần bán mòn các đồ   đạc trong nhà để sống. Khi không còn gì để bán, ông đành gửi con gái về quê cho bà ngoại. Ông theo người bạn cũ, một kỹ sư cơ khí thất nghiệp, mở tiệm sửa xe đạp. Thực ra thì ông chỉ là anh phụ việc vụng về, lúc bê chậu nước, lúc đưa cái kìm, cái mỏ lết, lúc quét dọn sơ sịa gian nhà, lúc qua đường gọi ly ca-phe quán cóc... Chiều nọ, có người phụ nữ đến nhờ thay vỏ xe. Thấy ông tay chân lóng ngóng, bà ta hỏi, anh có biết làm sổ sách không. Ông chưa kịp trả lời thì bạn ông đã lên tiếng, chị có việc gì nhẹ nhàng thì rước ổng giùm tôi. Rồi không đợi trả lời, anh ta nói một thôi một hồi, người ta bảo tên tác phẩm vận vào đời người viết, quả không sai. Hết Đêm rồi lại Giữa khuya, rồi thì Cuối đường, rồi thì Ngày muộn, nghe não nề quá, cách chi mà sung sướng, mà nhàn nhã cho được. Ông ta vung bàn tay đang cầm chiếc cờ- lê lên, định nói thêm điều gì bỗng dừng lại, nhìn sững giọt nước mắt đang lăn trên khuôn mặt trắng bệch của người bạn. Cả 3 người bọn họ ngồi im lặng trong gian hàng nhỏ của buổi chiều muộn. Một cơn mưa trái mùa bất chợt đổ ào ạt trên mái tôn, nghe như một cơn bão.
      Người phụ nữ tên Ngọc đưa ông về làm sổ sách cho tổ hợp làm mũ của bà. Công việc đơn giản, không cần chuyên môn, chỉ phải vào sổ số tiền xuất mua nguyên liệu (chủ yếu là vải vụn), số mũ giao cho các đại lý, số tiền thu lại, tiền công cho mọi người… Mãi về sau ông mới biết Ngọc là bạn học cũ của vợ ông, bà đã đọc rất nhiều tác phẩm của ông. Việc đi thay vỏ xe chỉ là một cái cớ để làm quen. Bà bảo, bà đã nhiều lần qua lại chỗ tiệm sửa xe và không sao an lòng nhìn ông vật vạ, mòn mỏi trong nỗi đau, trong cuộc mưu sinh. Giống như Diên, Ngọc là một phụ nữ tháo vát, giỏi giang. Chồng mất sớm, bà một mình xoay xỏa nuôi hai con khôn lớn. Cũng như Diên, Ngọc muốn ông tiếp tục công việc của mình. Bà sắm bàn sắm tủ, mua giấy mua bút, mua sách mua vở… Bà nói với ông, em nhớ nhà văn A đã nói câu này: cảm hứng là ngồi vào bàn đúng giờ. Thực ra thì cũng có lúc ông đã ngồi vào bàn. Cũng có lúc một ý nghĩ nào đó, một hình ảnh nào đó chợt lóe lên trong đầu nhưng rồi chúng lập tức bị xóa nhòa, bị tan biến, không cách chi lưu giữ được. Ông thú thực, anh không thể. Anh đã quên công việc của mình rồi, quên kiếp trước của mình rồi. Có lần, thấy ông đọc sách khuya, bà đem vào phòng một ly trà, ông đưa trang sách đang đọc dở về phía bà, rồi dịch cho bà nghe đoạn văn tiếng Pháp của nhà văn Tiệp Khắc nọ: “Chúng ta đi ngang qua hiện tại với hai mắt bị băng kín. Khá nhất thì chúng ta cũng chỉ có thể dự cảm và đoán định được mình đang trải qua điều gì mà thôi. Mãi đến sau này, khi tấm băng được tháo ra, chúng ta mới có thể nhìn lại quá khứ, thấu hiểu mọi điều và đánh giá nó”. Ông nói, anh hiểu những điều này, thậm chí đôi khi anh cũng nghĩ được những điều giống như ông ta. Có điều, ông ta viết được. Còn anh thì không. Đó là sự khác nhau giữa một tài năng và một người bình thường. Bà nghe ra nỗi đau trong giọng nói bình thản của ông. Từ bữa đó, không bao giờ bà dám nhắc nhở chuyện viết lách với chồng. 

      Rồi một buổi sáng nọ, ông biết tin con gái đầu lòng được một tàu cá nước ngoài cứu sống. Ông cầm chặt bức thư trong tay, chỉ thốt lên hai tiếng “trời ơi” rồi ngã vật xuống bất tỉnh. Những ngày sau đó, ông ngơ ngẩn vào ra, gần như không ăn, không ngủ, ngong ngóng chờ tin của vợ và con trai út. Bà lo lắng, chạy quanh tìm thầy tìm thuốc, tìm bạn bè đến chơi nhà, tìm cả nơi để ông tập Yoga, ngồi thiền. Ông cười buồn, anh không thể. Làm sao có thể ngồi xếp bằng ở đâu đó để quên nỗi đời cơ cực này được.
       Khi con gái thu xếp đón cả gia đình sang định cư ở nước ngoài, ông chọn một thị trấn ở phương Nam, nơi phố xá nhỏ hẹp, dân cư thưa thớt. Ông  không tìm gặp lại những bạn bè cũ, không giao du với những bạn bè mới. Ông ôm lấy chiếc máy tính gần hết thời gian của một ngày để liên hệ với những nơi có chức năng tìm kiếm người thân và chờ đợi. Nỗi chờ đợi giống như một thứ độc được pha chế từng ít một vào ngày tháng của ông.

     Gần đây, bà đến giúp việc trông coi một cửa hàng thực phẩm nhỏ cho đứa cháu gái. Bà bảo, vừa thêm được ít tiền vừa tiện việc chợ búa. Ông ở nhà một mình, loanh quanh từ phòng khách sang phòng ngủ rồi xuống bếp, tưới mấy chậu hoa trên bệ cửa sổ và ngồi vào máy tính, chờ tin.
      Thường thì cứ 10 giờ sáng bà lại gọi điện thoại về nhà nhắc ông uống sữa rồi uống thuốc. Sữa để sẵn trên bàn, gói thuốc và ly nước để bên cạnh. Buổi sáng nay, bà gọi mà không thấy ông nhấc máy. Gọi đến lần thứ ba thì bà dừng công việc, tức tốc chạy về nhà. Khi mở cửa, bà nhìn thấy ông đang ngồi, đầu tựa vào cạnh bàn, chân co lên, tay buông thõng trên đầu gối, mắt chăm chắm nhìn xuống sàn nhà, nơi có mấy cuốn sách và chiếc remote nằm lăn lóc. Bà chạy vội đến bên ông nhưng ông đã ra đi. Bà cho biết, trong số 5 cuốn sách có tập truyện đầu tiên Đi về phía núi và cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Giữa khuya.

        Sau khi làm việc với phía bưu điện và với bác sĩ chuyên khoa, cơ quan điều tra kết luận, ông bị đột quỵ nhưng vẫn còn ý thức trong một thời gian. Thông thường, trong những trường hợp như vậy, bệnh nhân có thể nhớ lại một số điều từng ghi dấu trong cuộc đời mình, như kiểu người ta lướt qua một cuốn sách, một bộ phim, khi nhanh khi chậm, khi đậm khi nhạt. Theo họ, ông mất trong khoảng thời gian từ 9 đến 10 giờ sáng ngày hôm ấy. Nhưng bà Ngọc quả quyết rằng ông ra đi đúng 10 giờ. Bà kể, khi gọi điện thoại , bà đứng bên cửa sổ và nhìn ra khoảnh vườn trước nhà. Ngay bên ngoài ô cửa, bà trông thấy một con chim màu xanh da trời cụp cánh đứng lặng giữa không trung trong giây lát rồi vỗ cánh bay đi. Chính trong giây phút đó, bà thấy một cơn đau dội trong tim. Bà tin rằng  đó là giây phút ông rời khỏi trần thế và con chim màu xanh kỳ lạ đó chính là linh hồn ông đến từ biệt bà. Bà bảo, đó là cách từ biệt của con người có tâm hồn thanh khiết nhất mà bà từng biết, trong suốt hơn 70 năm của đời mình. Khi cả nhà ngồi cùng nhau trong phòng khách, nơi ông ra đi, bà kể với hai người con gái của ông vừa trở về chịu tang cha, những lúc buồn, ông thường hay ngâm ngợi câu thơ: Chỉ mùa thu biết, mùa thu tỏ/ Phút bình yên trước lúc trở trời/ Tĩnh lặng, êm đềm chờ đông tới/ Những giây hạnh phúc cuối cùng thôi. Thấy bà lắng nghe và thuộc câu thơ, ông cho biết đó là thơ của Ivan Bunin, nhà văn Nga lưu vong, người đã trút hơi thở cuối cùng nơi đất khách. Ông chỉ cho bà xem bức tượng Bunin khoanh tay đứng dưới những cành lá mùa thu mềm mại, trong một cuốn sách ông mượn ở thư viện thị trấn. Ông bảo, ông yêu nước Nga xa xôi kia chính là nhờ đọc Bunin, cũng như ông đã yêu nước Pháp nhờ Anatole France, yêu nước Nhật nhờ Kawabata, yêu nước Úc nhờ Henry Lawson… Giọng nói của ông lúc ấy run run, vẻ mặt trang nghiêm, đầy xúc động. Cô con gái lớn nói với bà, trong một thư điện tử gần đây, sau khi thăm hỏi sức khỏe, công việc của gia đình cô, ông có viết thêm, dòng chữ in nghiêng:” ba dặn con, khi ba mất, hãy rải tro của ba xuống biển. Ba đã dặn dì Ngọc điều này, thư lưu trong ổ D máy tính của ba.”
      Gia đình đã làm theo nguyện ước của ông. Hẳn ông vẫn chờ đợi cuộc gặp với người vợ và đứa con trai nhỏ.

      Tin thêm: Hai tuần sau ngày ra đi của ông, cảnh sát cho biết:  gói quà do ông Jacob Nguyễn, một kỹ sư nông học sống tại Đan Mạch gửi tới. Cha ông Nguyễn là một chuyên gia nghiên cứu văn học Việt Nam. Sau khi cha mất, ông Nguyễn tìm thấy nhiều tác phẩm của các nhà văn hiện định cư ở nước ngoài. Biết rằng nhiều người trong số họ không còn giữ được các tác phẩm của mình, ông Nguyễn đã tìm địa chỉ và gửi sách cho khá nhiều người. Không hiểu vì lẽ gì gói quà này bị che mất địa chỉ người gửi và không có bức thư của ông Nguyễn gửi kèm. Ông Nguyễn rất buồn khi một việc làm tưởng đem lại niềm vui cho nhà văn lại gây nên một tai họa lớn đến vậy.

SG 6/2012
Y Nhi                                                                                        
 

     

No comments:

Post a Comment