Chiều Dài Nỗi Nhớ
Hải-Âu
Tại Quảng Trị các
chị em tôi đều được vào học ở trường công lập của thị xã. Riêng tôi không hiểu
vì lý do gì lại vào học ở trường Công Giáo Tê-Rê-Sa - được sự chăm sóc, dạy dỗ
thương yêu của các Cha và các Soeur. Lớp học được chia làm hai dãy bàn - một
bên dành cho con trai và một bên dành cho con gái. Tuy là học sinh ngoại đạo, ở
trường tôi cũng được học giáo lý như các học sinh khác. Mẹ tôi không phản đối
nhưng mỗi tối khi tôi ê a:
-Tê…Rê…Sa…Trần
…Thị…Huế…bởi đâu mà có?
-Thưa, bởi Chúa!
Là mẹ tôi càm ràm :
-Mạ mi! Chúa mô
sinh ra mi nờ.
Tôi thích những giờ
học Giáo lý vì bọn học trò con trai lười học, không bao giờ thuộc bài. Bọn con
gái chúng tôi chăm chỉ nên bao giờ cũng được ký đầu – hình phạt mà các Cha, các
Soeur thường dành cho bọn con trai về tội lười biếng. Tôi tuy nhỏ con nhất lớp
nhưng mỗi lần được trừng phạt bọn con trai thì phải biết - nhón chân, bậm môi,
giáng tay thiệt mạnh. Bọn con trai “thù” chúng tôi lắm, hăm he đón chúng tôi
sau giờ học trả thù cho bõ ghét.
Ở đây tôi còn có
nhỏ bạn thân ở gần nhà. Ba mạ nó là chủ rạp ciné duy nhất ở thị xã. Nó hay dẫn
tôi đi xem phim Ấn Độ, không phải trả tiền. Mỗi lần coi phim hai đứa khóc sướt
mướt vì tình tiết éo le trong phim. Tôi mê lắm! Nhiều hôm đang trông em bé cho mẹ
đi chợ, nghe nó rủ rê tôi xách luôn con bé theo. Nhỏ bạn tôi la chí choé:
-Mạ mi sanh nhiều
quá! Mi bế em vẹo cả lưng, không lớn nổi.
Nó la thế nhưng tôi
biết nó thương tôi lắm! Tôi nhe răng cười khì rồi bế xốc em chạy vội theo nó.
Lần đi xa Huế nhất
của mẹ là khi bố tôi được thuyên chuyển vào Saigon. Tôi biết mẹ buồn vì xa xôi
quá! Làm răng về thăm ôn mệ nì.
Bọn con nít cũng
buồn xo nhưng ba chữ “đi Saigon” với chúng tôi lúc đó ghê gớm lắm. Chúng tôi
bịn rịn chia tay, dặn dò nhau đủ thứ.
Vào Saigon, học
xong bậc tiểu học tôi thi đậu vào đệ thất của một trường Nữ Trung Học nổi tiếng
với đa số là con gái Bắc Kỳ. Hàng xóm, bạn thân của tôi lại là người miền Nam.
Tôi mất dần “gốc” Huế của mạ. Tôi thích thức ăn phong phú của người miền Nam mà
nhiều lần mẹ tôi phải gắt lên: “Món mô cũng cho nước dừa!”
Lên đệ ngũ tôi bắt
đầu tập tễnh làm thơ, viết văn. Cùng mấy nhỏ bạn thành lập Thi văn đoàn “Mắt
Tím”. Tôi vẫn là cô bé ngoan đạo ngày nào ở trường bà Soeur. Hàng tuần tới họp
bạn ở tòa soạn báo Tuổi Hoa trong nhà thờ Chúa Cứu Thế. Mỗi lần quỳ bên tượng
Đức Mẹ tôi lại nhớ đến hình ảnh của Ma Soeur với gương mặt xinh đẹp rạng rỡ, nụ
cười tươi tắn, hiền lành giữa đồi sim tím trong một dịp chúng tôi được viếng
thăm Nhà Thờ La Vang - nơi Đức Mẹ hiện ra. Không hiểu sao hình ảnh Soeur của
buổi chiều hôm ấy vẫn đầy ắp trong tim, sâu đậm trong lòng tôi như thế.
Saigon - mảnh đất
miền Nam trù phú đã giúp gia đình tôi an cư lạc nghiệp. Mẹ tôi thỉnh thoảng
cùng các chị lớn về Huế thăm ông bà ngoại, hoặc bố tôi đón ôn mệ vào Saigon
chơi dăm ba tháng. Riêng tôi, vẫn chưa một lần được về thăm Huế.
Sau kỳ thi Tú Tài
đôi, cuộc đời nữ sinh chúng tôi chia thành bao ngả rẽ vào đời. Năm đầu của đại
học, những hôm không có giờ lên lớp chúng tôi đứa ở Văn Khoa, đứa ở Dược Khoa,
đứa ở Nông Lâm Súc gọi nhau ơi ới, rủ nhau phóng xe Honda về thăm trường cũ.
Lại cùng nhau sà xuống ăn quà trước cổng trường, ríu rít kể chuyện học hành
mới. Dường như chúng tôi vẫn chưa quên được những tháng ngày nữ sinh hoa mộng
cũ. Một nhỏ bạn thân rẽ đàn, hoan hỉ báo tin “theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
Tôi gặp chàng trong
tiệc cưới nhỏ bạn. Buổi party lớn đầu đời tôi vẫn còn vụng dại và phải cố vấn
bà chị trước một tuần.
Thế mà hôm đó vừa
trông thấy tôi bước vào buổi tiệc, nhỏ bạn nhăn mặt kêu lên:
-Đi đám cưới tao mà
mi mặc soiré đen? Trông mi cứ như mấy bà Soeur!
Thấy nhỏ bạn giận
dỗi tôi hơi hối hận. Cũng bởi cái tội “ngoan cố” cãi lời bà chị.
Khi nhạc khiêu vũ trỗi lên, cô dâu, chú rể rồi từng cặp dìu
nhau ra sàn nhảy. Cảm thấy lạc lõng tôi lặng lẽ rời đám đông ra sân thượng đứng
nhìn trăng sao. Trời Saigon ban đêm mát rượi. Nhìn xuống chiếc soiré màu đen
của mình, tuy lạ lùng nhưng một cảm giác rất yên ổn trong tôi. Có tiếng động
khẽ và chàng xuất hiện mỉm cười:
-Bé đứng đấy không
lạnh à? Vào trong khiêu vũ cho vui.
Tôi lắc đầu cười
nhẹ - nụ cười hớp hồn chàng ngay. Chúng tôi quen nhau như thế. Sau này yêu nhau
tôi hỏi:
-Ngày đó sao anh
thích em? Em chẳng có gì đặc biệt cả.
Anh dí tay xao nhẹ
lên cánh mũi đang chun lại của tôi:
-Vì bé là “Hoa Hồng
Đen” của đêm hôm ấy.
Rồi anh khe khẽ
hát: “Em như một nụ hồng, mà ta hằng ngại ngùng…”
Đi chơi với chàng
tôi vẫn mặc áo dài trắng. Tôi thích loại áo dài tơ lụa mềm mại màu ngà có gân
hình những bông hoa cúc mà một thời chúng tôi đã “làm mưa làm gió” ở Trưng
Vương, khiến các nam sinh trường bạn cứ ngẩn ngơ “trông vời áo tiểu thư”. Mỗi
lần đón tôi ở cổng trường Văn Khoa, chàng hay đùa:
-Đón bé ở Văn Khoa
mà cứ tưởng đón cô bé nào ở Trưng Vương chứ!
Tình yêu đang thăng
hoa, nồng nàn trên mắt trên môi thì một ngày giữa tháng tư 75, vừa gặp nhau
chàng buồn rầu bảo tôi:
-Tình hình không
yên ổn em ạ! Gia đình anh đang chuẩn bị rời khỏi Việt Nam. Em đi với anh nhé!
Tôi hụt hẫng:
-Chúng mình chưa
làm đám cưới. Em không thể theo anh được.
Tôi biết bố anh có
Công ty Xuất Nhập Cảng làm việc ở ngoại quốc nên biết rõ tình hình ở Việt Nam
lúc bấy giờ và có điều kiện ra đi sớm. Ngày ra phi trường Tân Sơn Nhất, anh còn
điện thoại khẩn khoản:
- Em chỉ cần nói
một tiếng, anh sẽ ở lại…
Tôi hốt hoảng:
-Không! Anh cứ đi.
Chúng mình sẽ gặp nhau. Gia đình em cũng đang chuẩn bị. Bố em chưa thể rời
nhiệm sở lúc này.
Nhưng giờ phút chót
của ngày định mệnh ngổn ngang trăm mối ấy, toàn bộ gia đình tôi đã bị kẹt lại.
Cuộc sống khốn khó
với tù đày, đi kinh tế mới sau 75 khiến tôi chưa kịp đau đớn với mối tình đầu
tan vỡ đã phải mạnh mẽ đứng dậy để đối phó với hoàn cảnh đen tối trước mắt. Tôi
đến trường học tập, sinh hoạt chính trị nhưng Văn Khoa giải thể chứng chỉ đang
theo học. Tôi được chuyển sang Sư phạm. Xét lý lịch phải “ ba đời không dính
líu tới ngụy” vì lợi ích “trăm năm trồng người”, Sư phạm chuyển tôi đi kinh tế
mới.
Anh ơi! Làm sao biết được
Ngày mai đời em ra sao?
Mà mắt bây giờ vẫn ướt
Khóc cho nỗi buồn ngọt ngào…
(TT
Nguyệt Mai)
Bố và các anh rể tôi lần lượt bị tập trung đi
học tập cải tạo. “Ngôi nhà không có đàn ông” trở nên thê lương, ảm đạm. Những
người mẹ hiền, vợ trẻ lâu nay ở nhà chăm sóc gia đình, con cái bỗng nhiên đổ xô
ra đường bươn chải, lo toan cơm áo.
Ngày bố từ giã gia
đình đi cải tạo, nhìn ánh mắt đau buồn của bố tôi chợt nhớ đến những ngày thơ
ấu ở Quảng Trị. Cuối tuần, bố thường chở chị em chúng tôi ra thăm bạn bè của bố
ở tận Đông Hà. Đứng bên này cầu Hiền Lương nhìn sang bên kia vĩ tuyến 17, bố
bảo với chúng tôi :
-Ông bà nội, các
bác, các chú ở bên đấy!
Rồi bố thở dài,
ngậm ngùi:
-Khoảng cách không
bao xa mà không thể gặp được nhau.
Ngày nay nhịp cầu
Hiền Lương đã nối liền hai miền Nam Bắc nhưng vẫn không có nhịp cầu nào nối
liền trái tim giữa những người anh em
ruột thịt của hai miền đất nước.
Ông bà nội tôi đã
mất trước ngày 30 tháng 4 -75. Gặp lại bác và các chú khi gia đình tôi trong
hoàn cảnh đau thương, tan nát sao long tôi dửng dưng lạ thường. Mẹ tôi mở lời
nhờ các chú ký tên bảo đảm trên các tờ lý lịch để chúng tôi được đi học, đi
làm. Trong tôi dấy lên chút tình máu mủ và chua xót khi nghe chú nói nhỏ với
mẹ:
-Em chỉ ao ước có
cái đài, cái xe đạp thôi chị ạ!
Bao năm hy sinh,
gian khổ chiến đấu để “giải phóng” đất nước, lý tưởng của người cộng sản chỉ có
thế thôi sao?
Tôi như bơ vơ giữa
dòng đời nghiệt ngã, bỏ học đi làm. Mỗi khi ngang qua trường cũ, tôi lại ngậm
ngùi:
Nếu ngày mai anh có trở về.
Thăm trường Văn cũ của
ngày xưa
Cho em nhắn gởi cùng
cây lá
Chuyện mình ngày ấy đã
xa rồi.*
Dù những cánh thư
anh gởi về vẫn đầy hứa hẹn thương yêu:
Bé ơi! Có nhớ mùa mưa trước.
Bên nhau lần cuối anh
ra đi
Gởi lại thành đô hình
bóng bé.
Gởi lại thành đô những
tháng ngày…*
Kèm theo tấm ảnh
chàng vẽ tôi: “ tóc dài tung bay theo gió, vạt áo lụa trắng ươm trong nắng
vàng” và với hàng chữ bên dưới “Em hiền như Ma Soeur” thì thời gian vẫn là
phương thuốc nhiệm mầu của sự chia lìa, xa cách.
Mà anh, mưa mãi, mưa hoài
Em sợ một ngày phôi phai
Phù sa tình ta trôi mất
Theo cơn mưa lũ hôm
nay…
( TT Nguyệt Mai)
Tôi đã nghe lời
chàng quên nhau thôi. Quên đi những ngày tháng cũ với bao mộng đẹp, để có thể
tiếp tục sống trong những ngày đen tối, tuyệt vọng.
Tôi qua Mỹ khá muộn
màng. Khoảng cách giữa tôi và chàng bây giờ không phải là bờ đại dương bao la,
xa thẳm mà là một mái ấm hạnh phúc nhỏ.
Khi mái tóc điểm sương tôi muốn tìm về Saigon xưa. Saigon với “con đường Duy Tân cây dài bóng
mát”. Saigon với tình yêu đầu đời lãng
mạn, trong sáng, thơ ngây “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”. Saigon với
những kỷ niệm của “Một thời để yêu, một thời để nhớ.” Tất cả nay còn đâu? Saigon đã đổi thay với những con người vô
cảm. Giá trị nhân phẩm, đạo đức suy đồi. Thế hệ trẻ bị ru ngủ bởi vật chất, ăn
chơi sa đọa. Đứng giữa Saigon như đang đứng một nơi xa lạ, không phải trên chính
quê hương của mình.
Tôi sinh ra ở Huế.
Chưa một lần được biết về Huế. Nhờ sợi dây rốn mạ quên cắt tôi vẫn nhớ thương
Huế da diết. Mơ ước một ngày đất nước được tự do, dân chủ thật sự, tôi về thăm
Huế. Để được khua nhịp guốc trên cầu Trường Tiền “sáu vài, mười hai nhịp”. Để
được cảm nhận thế nào là “Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa đông thiếu áo, hè
thời thiếu ăn…”
Có khoảng không
gian nào đo được chiều dài nỗi nhớ trong tôi không nhỉ? Giờ đây tha hương xa
xôi vạn dặm, tôi vẫn đành buông tiếng thở dài…
Hải-Âu
( * Những đoạn thơ
trích không nhớ tên tác giả)
No comments:
Post a Comment