Phan
Tấn Hải
Tượng đài nơi Khu lưu niệm Nguyễn Du
ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (Photo: VietnamPlus)
Thi
hào Nguyễn Du (1766–1820) mang trong tâm rất nhiều nỗi buồn sâu thẳm… Đó là điểm
nổi bật hiện ra khi đọc lại thơ Nguyễn Du, nơi đó từng trang sách, từng câu văn
là những suy nghĩ rất buồn. Hình ảnh Nguyễn Du trong văn học Việt Nam đã trở
thành một đỉnh cao ngôn ngữ, một tượng đài thi ca cho muôn đời sau, tuy tuổi thọ
của cụ chỉ 54 tuổi (ghi nhận, một số sách cũ ghi rằng Nguyễn Du sinh năm 1765,
nhưng các sách mới ghi theo Nguyễn tộc gia phả viết rằng Nguyễn Du sinh năm
1766).
Như
thế, năm nay, năm 2020, là 200 năm tính từ năm cụ khuất núi. Nguyễn Du từng có thời
xuất gia… Nếu cụ ẩn trong chùa, sống suốt một đời tăng sĩ, hẳn là chúng ta sẽ
thấy sự nghiệp văn học của cụ mang ngôn phong khác; có thể sẽ là một Thiền sư để
lại nhiều bài thơ Thiền và một số sách luận giải kinh điển. Nhưng khói lửa thời
ly loạn đã kéo Nguyễn Du về với nội chiến phân tranh, và tâm hồn lãng mạn đã dẫn
cụ về những những hình bóng giai nhân trong thơ (và cả trong đời thường).
Trong
thời đất nước điêu linh, gia tộc Nguyễn và bằng hữu chia nhiều phe – một phần theo
phò nhà Lê, một phần theo nhà Tây Sơn dựng nghiệp, một phần theo Nguyễn Ánh,
người sau này thống nhất đất nước và trở thành Vua Gia Long (sử ghi: năm 1796,
Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận
bắt giam ba tháng ở Nghệ An, sau án tù được tha về quê sống ở Tiên Điền) – nhà thơ Nguyễn Du từng trực tiếp tham dự cuộc
chiến phân tranh, rồi do cơ duyên lưu lạc (nói theo chữ bây giờ: làm du tăng?
hay tỵ nạn? hay lưu vong?) nhiều năm trên đất Trung Hoa. Rồi cũng có một thời kỳ
nhà thơ nho sĩ Nguyễn Du dấy binh nổi dậy, thua trận và rồi trốn về quê vợ, ăn
rau nhiều năm tới xanh cả mặt... Khi Tây Sơn bị tận diệt, Nguyễn Du ra làm quan
cho Vua Gia Long, nhưng thơ ông cho thấy một tấm lòng muốn lui về ẩn cư nơi quê
nhà Hồng Lĩnh. Nỗi buồn sâu thẳm tới mức khi bệnh nặng, Nguyễn Du không uống
thuốc, nói người nhà sờ vào tay chân xem; khi người thân nói lạnh rồi, Nguyễn
Du chỉ nói, “Được” – và từ trần, không lời nào trăn trối để lại.
Nỗi
buồn đó không chỉ ẩn trong Truyện Kiều với những câu như:
Trải
qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng...
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng...
Nỗi
buồn đã hiển lộ rất mực đa dạng trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, trong nhiều bài
viết và nhiều đề tài. Thơ buồn tới mức có thể nói rằng Nguyễn Du đang tuyên
thuyết Khổ Đế của nhà Phật.
Một
điểm cho thấy rằng ngay cả khi trong cõi nhân gian, có mối tình lãng mạn với Hồ
Xuân Hương khoảng ba năm, Nguyễn Du từng làm 2 bài thơ tặng nữ sĩ họ Hồ với bút
hiệu Chí Hiên (và như thế, Nguyễn Du từng làm thơ tặng cô với một hay nhiều bút
hiệu khác)… Tại sao làm thơ tặng nữ sĩ lại ký bút hiệu bằng pháp hiệu Chí Hiên
thời còn là một tăng sĩ? Hay là, có ai trùng tên Chí Hiên? Hay là, Nguyễn Du
làm thơ tặng nàng họ Hồ nhưng không muốn nhiều người biết, nên dùng pháp danh
khi còn là tăng sĩ Chí Hiên trong thời lưu lạc bên Trung Hoa?
Trong
khi đó, Nguyễn Du trong thi tập “Nam trung tạp ngâm” có 5 bài thơ nhan đề Mộng
đắc thái liên (từ kỳ 1 tới kỳ 5), lời rất lãng mạn, được học giả Hoàng Xuân Hãn
và Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (trong sách Lưu Hương Ký do NNB dịch và chú) suy
đoán là Nguyễn Du làm tặng Hồ Xuân Hương.
Nơi
đây, sẽ trích các bản dịch nghĩa của
Thivien.net để thấy chất thơ rất lãng mạn của Nguyễn Du. Để dễ đối chiếu các
văn bản, sẽ viết như văn xuôi.
---
Mộng đắc thái liên kỳ 1 (Mộng thấy hái sen kỳ 1): Khẩn thúc giáp điệp
quần / Thái liên trạo tiểu đĩnh. / Hồ thuỷ hà xung dung / Thuỷ trung hữu nhân ảnh.
Dịch
nghĩa: Buộc chặt váy cánh bướm / Chèo thuyền con hái sen / Nước hồ sao lai
láng / Trong nước có bóng người.
---
Mộng đắc thái liên kỳ 2: Thái thái Tây Hồ liên / Hoa thực câu thướng thuyền
/ Hoa dĩ tặng sở uý / Thực dĩ tặng sở liên.
Dịch
nghĩa: Hái, hái sen Hồ Tây / Hoa và gương sen đều để trên thuyền / Hoa để tặng
người mình trọng / Gương để tặng người mình thương.
---
Mộng đắc thái liên kỳ 3: Kim thần khứ thái liên / Nãi ước đông lân nữ / Bất
tri lai bất tri / Cách hoa văn tiếu ngữ.
Dịch
nghĩa: Sớm nay đi hái sen / Nên hẹn với cô láng giềng / Chẳng biết đến lúc
nào không biết / Cách hoa nghe tiếng cười.
---
Mộng đắc thái liên kỳ 4: Cộng tri liên liên hoa / Thuỳ giả liên liên cán / Kỳ
trung hữu chân ti / Khiên liên bất khả đoạn.
Dịch
nghĩa: Mọi người đều biết yêu hoa sen / Nhưng ai là kẻ yêu thân sen / Trong
thân cây sen thật có tơ sen / Vương vấn không đứt được.
---
Mộng đắc thái liên kỳ 5: Liên diệp hà thanh thanh / Liên hoa kiều doanh
doanh / Thái chi vật thương ngẫu / Minh niên bất phục sinh.
Dịch
nghĩa: Lá sen sao mà xanh xanh / Hoa sen đẹp đầy đặn / Hái sen chớ làm tổn
thương ngó sen / Sang năm sen không mọc lại được.
Làm
tới 5 bài thơ lãng mạn tuyệt vời, chỉ để tặng một cô hái sen vô danh? Hiển
nhiên là tặng ai đó, nhiều phần hẳn là nữ sĩ họ Hồ.
Tiến
sĩ Phạm Trọng Chánh trong bài viết nhan đề “Tiểu Sử Nguyễn Du Qua Những Phát
Hiện Mới” trên Việt Báo ngày 02 / 01 / 2016 ghi nhận như sau, trích:
“Từ
khi tìm ra Lưu Hương Ký thơ Hồ Xuân Hương có chép hai bài thơ Chí Hiên tặng.
Suy diễn từ tình cảm oán trách trong bài, tôi cho rằng đó là thơ Nguyễn Du, oán
trách Hồ Xuân Hương đi lấy chồng Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, khi Nguyễn Du
bị tù tại Hồng Lĩnh năm 1796. Tôi cho rằng đó là bút hiệu Nguyễn Du dùng trước
khi đổi thành bút hiệu Thanh Hiên. Cuối năm 1787 Nguyễn Du sang Vân Nam bị bệnh
ba tháng xuân, sau đó Nguyễn Du xuất gia thành nhà sư Chí Hiên, để đi
giang hồ đến Trường An và hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Trung Châu. Thành nhà
sư đi nhờ các thuyền buôn không mất tiền, đêm trú lại một ngôi chùa trên đường
đi tụng Kinh Kim Cương làm công quả, ăn ngủ tại các chùa trên đường đi. Chí là
danh hiệu Chí Thiện Thiền Sư Chưởng môn Thiếu Lâm Tự thời vua Càn Long. được
người đương thời kính phục, đề tài của nhiều bộ tiểu thuyết. Nhà sư giỏi võ vác
thanh trường kiếm trên vai, được các thuyền buôn tin tưởng và có thể nhờ làm lễ
cầu phúc cầu may buôn bán tốt lành. Với phương tiện này Nguyễn Du có thể đi
Giang Bắc Giang Nam cái túi không, Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, (đi gần 5000
km) và Tụng Kinh Kim Cương nghìn lượt (1000: 365 ngày= khoảng 3 năm).” (1)
Đó
là một giả thuyết cũng có thể khả tín. Tuy nhiên, không ai biết chính xác các
chi tiết đó. Bởi vì, một Thiền sư hẳn là quan tâm về Thiền hơn tụng kinh,
và không chắc đã tụng kinh hàng ngày
trong khi lưu lạc trên đất Trung Hoa. Một điểm nên thấy, Nguyễn Du (trong vai
trò nhà sư Chí Hiên) có thể giỏi làm thơ, viết văn chữ Hán, nhưng để giao tiếp
là phải nói, hẳn nhiên là giọng không phải là giọng nói của người bản xứ Trung
Hoa, như thế chuyện “tụng kinh để làm lễ cầu phúc cầu may buôn bán tốt lành”
thì đa số dân Trung Hoa có lẽ không thỉnh mời một nhà sư Việt Nam, với cách tụng
kinh giọng người Hà Tĩnh như cụ. Hẳn là, cụ Nguyễn Du tụng ngàn biến Kinh Kim
Cương nhiều phần là trong những khi ẩn cư ở Việt Nam. Có thể đoán rằng, trong bộ
y phục nhà sư, Nguyễn Du chỉ cần viết thư pháp vài chữ là được Phật tử cúng tiền,
thậm chí chỉ cần đứng chắp tay trước cửa nhà hay góc phố là được dân Trung Hoa
bước tới cúng dường; đó là truyền thống của các Thiền sư Trung Hoa, tùy trường
hợp: vấn đạo, thỉnh pháp, du hóa… Bởi vì, Nguyễn Du không lẽ chỉ mặc áo sư để
có tiền đi bụi đời Giang Nam, Giang Bắc…
Nhưng
khát vọng sống đời xuất gia lúc nào cũng mang trong tâm Nguyễn Du (có thể, kể cả
khi đã lấy vợ?)… Giọng thơ Nguyễn Du bàng bạc chất buồn của một người sống thâm
sâu với ý thức về Khổ Đế, như trong bài thơ nhan đề Tự thán kỳ 2, trong tập Thanh
Hiên Thi Tập viết trong thời kỳ Mười năm gió bụi (1786-1795), trích:
Thư
kiếm vô thành sinh kế xúc / Xuân thu đại tự bạch đầu tân / Hà năng lạc phát quy
lâm khứ / Ngoạ thính tùng phong hưởng bán vân!
Bản
dịch nghĩa trên Thuvien.net: Văn võ không thành sinh kế quẫn bách / Hết xuân
lại thu, đầu cứ bạc thêm / Ước gì có thể gọt tóc vào rừng / Nằm nghe tiếng
thông reo lưng chừng mây!
.
Hãy
hình dung rằng Nguyễn Du tự biết mình có tài văn chương, tự tin có tài võ lược
(Sử ghi: năm 1787, Nguyễn Du bốn năm trấn đóng Thái Nguyên, sau trận chiến với
quân Tây Sơn, đi giang hồ không nhà không cửa cùng Nguyễn Đại Lang) nhưng cuộc
nội chiến đã làm tan nát cả gia tộc nhà Nguyễn, và rồi Nguyễn Du phải bụi đời
(tỵ nạn? lưu vong?) sang Trung Hoa – và trở thành nhà sư du tăng trong thời kỳ
này.
Trong
thời kỳ lưu lạc bên Trung Hoa (từ 1787 tới 1790), Nguyễn Du lúc nào cũng nghĩ tới
quê nhà. Bài thơ nhan đề Bát Muộn (Xua Nỗi Buồn) trong tập Thanh Hiên Thi Tập có
4 dòng cuối như sau:
Tang
tử binh tiền thiên lý lệ / Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư / Ngư long lãnh lạc
nhàn thu dạ / Bách chủng u hoài vị nhất sư.
Dịch
nghĩa: Quê nhà trong cơn binh lửa hẳn đã tiêu điều / Ở xa muôn dặm nghĩ đến
mà rơi nước mắt / Bạn bè, bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn / Đêm thu vắng,
cá rồng lặng lẽ, trăm mối u hoài chưa dẹp được chút nào!
Nỗi
buồn không chỉ là từ xa muôn dặm nghĩ về quê nhà, mà tự thấy là suốt đời không
gỡ nổi. Trong bài thơ nhan đê “Thu Chí (II)” trong cùng tập thơ trên, có hai
câu rất buồn, trích:
Trù
trướng lưu quang thôi bạch phát / Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
Dịch
nghĩa: Thời gian thấm thoắt làm cho mái tóc chóng bạc / Nghĩ mà ngậm ngùi,
suốt đời ta chưa hề gỡ được mối u sầu.
Nỗi
buồn sâu thẳm tới mức Nguyễn Du không nói nên lời. Ngay cả khi làm quan cho Vua
Gia Long cũng giả vờ như ngu, như khờ,
như sợ cung đình… Tại sao? Nguyễn Du là một nhà thơ tài năng tự biết hơn người,
bản thân cũng đã từng vào sinh ra tử với đao kiếm, cũng từng là nhà sư và ý thức
về vô thường, lẽ nào lại thực sự là ngu, thực sự là khờ, thực sự là sợ? Trong
khi đó, theo gia phả, Nguyễn Du là chú vợ của Vua Gia Long Nguyễn Ánh (một cung
tần của vua là bà Thị Uyên, con Nguyễn Trừ, anh thứ năm của Nguyễn Du).
Tự
điển Bách khoa Mở viết về thái độ Nguyễn Du trong cung đình:
“Đại
Nam thực lục chép về Nguyễn Du: 'Du là người Nghệ An, học rộng giỏi thơ, càng
giỏi về Quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không
hay nói gì.' Đại Nam liệt truyện chép: 'Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề
ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không nói được.' Người đời
sau, như ý kiến của các ông Trịnh Vân Định, Trần Nho Thìn cho đó là một cách
khéo léo để giữ toàn mạng và thăng tiến trong thời loạn, mặc dù trong văn thơ của
Nguyễn Du thường đề cao những anh hùng thời loạn, nhưng ông chọn cách sống
khác, cống hiến nhưng "ẩn dật" trong chốn quan trường.”
Ngẫm
lại, nỗi buồn sâu kín của Nguyễn Du kéo dài hơn một đời người. Ông nghĩ rằng ba
trăm năm sau may ra mới có người thương tiếc ông… Bài thơ nhan đề “Độc Tiểu
Thanh ký” trong Thanh Hiên Thi Tập) có hai câu cuối:
Bất
tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch
nghĩa: Chẳng biết ba trăm năm sau nữa / Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta?
Buồn
chi mà gửi tâm sự tới ba trăm năm sau? Hẳn là từ cuộc nội chiến binh đao… Anh vợ
của Nguyễn Du theo nhà Tây Sơn, trong khi hai người anh / em của Nguyễn Du dự tính
chạy theo Lê Chiêu Thống sang Tàu nhưng không kịp.
Bài
thơ nhan đề "Ngô gia đệ cựu ca cơ" trong thi tập Bắc Hành Tạp Lục,
tương truyền là Nguyễn Du tặng cho em khác mẹ là Nguyễn Úc. Theo Wikisource:
“Gia
đệ: Em, có thể là em cùng mẹ, mà cũng có thể là em khác mẹ. Đây có thể chỉ người
em cùng mẹ là Nguyễn Úc được tập ấm là Hoàng Tín đại phu Trung Thành Môn Vệ Úy.
Năm Kỷ Dậu (1789) vua Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Úc chạy theo
không kịp, về ngụ nơi quê vợ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm
Tân Vị (1811), Gia Long nghe ông có tài khéo, xuống chiếu triệu vào kinh, bổ
làm Thiêm Sự bộ Công, tước Hầu. Những miếu điện ở kinh thành đều do ông sáng chế
kiểu thức.” (2)
Trong
khi đó, sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Trần Văn Nhĩ, NXB Văn Nghệ, 2007) ghi rằng:
“Anh của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (1761-1805) giữ chức Hiệp tán quân cơ Sơn Tây.
Khi Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc, ông theo không kịp, về quê mẹ ở Bắc Ninh.
Sau có người tiến cử, ông theo Tây Sơn, giữ chức Hàn lâm thị thư, sau đó làm
Phó sứ tuế cống sang Trung Quốc. Khi Gia Long lên ngôi, ông ra trình diện, làm
quan vài năm rồi mất.”
Mặt
khác, Wkipedia kể về một người anh Nguyễn Du lui về quê dấy binh chống Tây Sơn,
và các gia trang nhà Nguyễn đều bị đốt sạch:
“Tháng
mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn
Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết. Dinh cơ, từ đường họ Nguyễn ở
Tiên Điền, Hà Tĩnh bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt cháy, phá hủy, làng Tiên Điền
bị làm cỏ vì cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh.”
Trong
khi đó, Nguyễn Đề (anh của Nguyễn Du) và Đoàn Nguyễn Tuấn đều đã rời nhà Lê để
theo Tây Sơn (nhưng Nguyễn Du hướng tâm về Nguyễn Ánh, người sau trở thành Vua
Gia Long). Wikipedia viết, trích:
"Năm
Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô
Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn
Nguyễn Tuấn.
Năm
Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ
chức Hiệp tán nhung vụ. Nguyễn Du và Nguyễn Ức được Nguyễn Đề giao cho việc về
Hồng Lĩnh xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền mà ông bận việc quan không thể
trực tiếp trông coi.
Năm
1795, Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà
Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Mùa
đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh
nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha
ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng
(Cảm hứng trong tù). Nguyễn Du ra Thăng Long, thì Hồ Xuân Hương đã được mẹ gả
cho thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm.” (hết trích)
Trong
bài thơ làm trong tù đó, Nguyễn Du viết:
Tứ
hải phong trần gia quốc lệ / Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Dịch
nghĩa: Khắp bốn bể đầy gió bụi, chuyện nhà chuyện nước nghĩ tới là rơi lệ / Mười
tuần nằm trong lao tù, trong lòng băn khoăn chuyện sống chết.
Lúc
đó là liều thân rồi: Nguyễn Du liều thân từ khi trốn vào Gia Định tìm theo Nguyễn
Ánh, thì chuyện tù hay hy sinh thân mạng không còn là điều quan tâm. Do vậy, băn khoăn chuyện sống chết có thể là
nghĩ tới theo quan điểm nhà Phật, đặc biệt là với cựu tăng sĩ Chí Hiên (Nguyễn
Du), cũng là người đã từng tụng tới một ngàn lần Kinh Kim Cương… Nghĩa là, chuẩn
bị cho giây phút cận tử? Chúng ta chỉ có thể suy đoán thôi.
Trong
khi đó, lúc nào Nguyễn Du cũng ý thức về pháp ấn Vô Thường của nhà Phật, trong
khi tâm vẫn giữ được an nhiên. Ngôn ngữ về pháp ấn Vô Thường rất minh bạch
trong các trích thơ sau.
Tạp
thi kỳ 2, trích: Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự / Tứ thì tâm kính tự như như.
Dịch
nghĩa: Chuyện trước mắt đổi thay như hoa nở lá rụng / Quanh năm, cõi lòng vẫn
thản nhiên như không.
Ký
hữu (I), trích: Nhãn để phù vân khan thế sự / Yêu gian trường kiếm quải thu
phong.
Dịch
nghĩa: Mắt xem việc đời như một đám phù vân / Thanh kiếm đeo lưng trước làn
gió thu.
Đặc
biệt là hình ảnh chỉ có trong Kinh Luận, khi dùng trăng sáng để chỉ cho bản
tâm, hiện lên minh bạch khi sóng lặng.
Đạo
ý, trích: Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh / Tỉnh thuỷ vô ba đào / Bất bị nhân
khiên xả / Thử tâm chung bất dao / Túng bị nhân khiên xã / Nhất dao hoàn phục
chỉ / Trạm trạm nhất phiến tâm / Minh nguyệt cổ tỉnh thuỷ.
Dịch
nghĩa: Trăng sáng chiếu giếng xưa / Nước giếng không nổi sóng / Không bị người
khuấy lên / Lòng này không xao động / Dù bị khuấy lên / Dao động một lúc lại lặng
ngay / Tấm lòng trong vằng vặc / Như ánh trăng sáng chiếu giếng nước năm xưa.
Tết Thanh minh Kim Trọng gặp chị em Thúy Kiều
tranh của họa sĩ Lê Chánh,
được trưng bày tại lầu 3 dinh Độc Lập.
(Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên, Wikipedia)
Nỗi
buồn sâu thẳm của Nguyễn Du hiển lộ minh bạch trong tác phẩm có tên quen thuộc
với chúng ta là Truyện Kiều (nhan đề: Đoạn Trường Tân Thanh, dịch là “Tiếng kêu
mới về nỗi đau đứt ruột.”). Hình ảnh Thúy Kiều bán mình chuộc cha có phải ám chỉ
tự thân từng có những hành xử bất như ý nào đó? Thí dụ: muốn làm tăng sĩ trọn đời,
nhưng rồi phải về cõi thế tục, vào cuộc nội chiến, rồi làm quan? Thí dụ: nhìn
thấy gia tộc chia nhiều hướng trong cuộc binh lửa, và ông muốn giải thích rằng
có rất nhiều lựa chọn không hoàn toàn như ý? Hiển nhiên, chúng ta không biết
minh bạch.
Nhưng
di hại chiến tranh luôn luôn là tan nát, chết chóc. Đó là lý do Nguyễn Du sáng
tác Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh (Văn Tế Mười Loại Chúng Sinh), với 184 câu thơ
song thất lục bát, mang tấm lòng từ bi của ông. Chúng ta có thể nêu giả thuyết
rằng, nếu Nguyễn Du không phải cựu tăng sĩ Chí Hiên, văn phong không thể co giọng
của người trong cửa Thiền như thế.
Trong
đó, thấy rõ là nỗi đau hậu chiến. Trích Văn Tế, từ câu 21:
Cũng
có kẻ tính đường kiêu hãnh / Chí những lăm cướp gánh non sông / Nói chi những
buổi tranh hùng / Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau / 25. Bỗng phút đâu mưa
sa ngói lở / Khôn đem mình làm đứa sất phu / Lớn sang giàu nặng oán thù / Máu
tươi lai láng, xương khô rã rời / Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc / 30. Quỷ không
đầu than khóc đêm mưa / Cho hay thành bại là cơ / Mà cô hồn biết bao giờ cho
tan...
Nhìn
theo mắt của người học Phật, một bài thơ nổi bật của Nguyễn Du là bài “Lương
Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài” (Đài đá chia kinh của
thái tử Chiêu Minh nhà Lương). Ngôn phong của Nguyễn Du nơi đây không còn là
thơ, mà thực sự chính là kinh, là luận, là lời của Bồ Đề Đạt Ma, là ngôn ngữ của
Huệ Năng… Không phải người đã trực nhận bản tâm, sẽ không viết nổi như thế.
Thiền
sư Đại Lãn (Hòa Thượng Thích Đức Thắng) ghi nhận: "Qua nội dung bài thơ
này, Nguyễn Du tiên sinh đã cho chúng ta biết được sự thông hiểu về giáo lý Đại
thừa nhà Phật nói chung và, nhất là Thiền Tông Phật giáo nói riêng của cụ,
không những về mặt nghiên cứu học hỏi thâm hiểu thông suốt sâu xa không thôi,
mà ngay cả đến vấn đề thực hành trong tu tập để đưa đến sự đạt ngộ về Thiền qua
“Vô Tự” là chân kinh cũng được cụ thể hiện rốt ráo nữa." (2)
Nơi
đây, chúng ta trích các câu thơ cuối bài “Phân Kinh Thạch Đài” như sau:
Nhân
liễu thử tâm nhân tự độ / Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu / Minh kính diệc phi đài
/ Bồ Đề bản vô thụ / Ngã độc Kim Cương thiên biến linh / Kì trung áo chỉ đa bất
minh / Cập đáo phân kinh thạch đài hạ / Chung tri vô tự thị chân kinh.
Đại
Lãn dịch:
Người
tỏ tâm này người tự độ / Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi / Gương sáng trong veo
cũng không đài / Bồ-đề xưa nay vốn không cây / Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến
/ Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều / Cho đến dưới đài đá phân kinh / Cuối cùng
“Vô tự” biết là chân kinh.
Than
ôi, lấy đâu ra một nhà thơ viết được như thế? Người tự độ, tại tấm lòng ngươi,
gương sáng không đài, Bồ-đề không cây, vô tự chân kinh… Không phải Thiền sư,
không viết nổi như thế.
Tụng
kinh tới mức như thế, thấu rõ kinh luận như thế, viết rành mạch như thế, nhưng
rồi vẫn trở về nơi gió bụi… để tới một ngày, ngồi xuống viết văn tế chiêu hồn
cho những người bị chém đầu trong cuộc nội chiến: “Quỷ không đầu than khóc
đêm mưa / Cho hay thành bại là cơ / Mà cô hồn biết bao giờ cho tan...”
Nỗi
buồn nào sâu thẳm hơn… cho nhà sư Chí Hiên, người một hôm đã lang thang vào chợ
để đóng vai nhà thơ Nguyễn Du.
PTH
GHI
CHÚ:
(1)
TS Phạm Trọng Chánh. "Tiểu Sử Nguyễn Du..." https:
/ / vietbao.com / a247531 / tieu-su-nguyen-du-qua-nhung-phat-hien-moi
(2)
Đại Lãn. Nguyễn Du Và Phân Kinh Thạch Đài. https:
/ / thuvienhoasen.org / a8357 / nguyen-du-va-phan-kinh-thach-dai
No comments:
Post a Comment