Lương
Thư Trung
Chợ nổi Long Xuyên
Bạn
ơi,
Hồi
đó, từ chợ quận Lấp Vò quê tôi, nếu bạn muốn lên Long Xuyên, từ chợ quận người
ta phải quẹo mặt đi theo con đường liên tỉnh số 8, dài chừng ba cây số, tới một
bến sông và rồi bạn xuống xe để đi ngang qua một bến bắc có tên là bắc Vàm
Cống. Hồi xưa bến bắc Vàm Cống này không biết khởi công xây dựng từ lúc nào
nhưng được biết nó được hoàn tất vào năm 1925.
Bến
bắc Vàm Cống, hồi còn nhỏ Tía tôi mỗi lần bơi xuồng từ Lấp Vò về quê ngoại tôi
trên rạch Mặc Cần Dưng (Long Xuyên) đều phải bơi ngang qua bến bắc này. Hồi rất
xa xưa ấy, những năm 1945-1946, lúc tản cư về bên ngoại thì Tía Má tôi lâu lâu
mới về Lấp Vò một lần và lần nào cũng bơi qua Long Xuyên. Từ Vàm Cống, khúc
sông Hậu Giang chỗ này khá rộng, xuồng có khi gặp trời không có gió, sông không
có sóng thì đỡ khổ; những lúc có gió từ dưới Cần Thơ thổi lên, mà nhứt là gặp
gió chướng nữa thì ôi thôi sóng dâng những lượn sóng rất cao làm cho chiếc
xuồng có sức chở khoảng ba chục giạ lúa, lúc bấy giờ sóng nhồi lên nhồi xuống
coi như sắp chìm tới nơi vậy. Hồi đò dù tôi còn rất nhỏ nhưng tôi run lắm, sợ
chìm xuồng!
Mỗi
lần đi ngang qua bắc như vậy, những chiếc bắc hồi đó nhỏ lắm, chỉ có một đầu
nên khi bắc ghé lại thì xe hơi phải de lên, chứ không như sau nay bắc Vàm Cống
có loại bắc hai đầu, xe hơi chỉ cần chạy tới và xe lần lần bò lên cầu rồi chạy
lên các hướng hoặc lên Long Xuyên thì rẽ sang tay mặt, còn rẽ trái là hướng về
Rạch Giá. Vậy mà rồi hồi ấy tấp nập người, xe và cả trâu bò cũng được bắc đưa
qua sông cái Hậu Giang!
Bắc Vàm Cống (Long
Xuyên-An Giang)
Bạn có còn nhớ có lần thi sĩ Tô Thùy Yên đi qua bắc
Vàm Cống vào ban đêm và ông có cảm tác mấy vần thơ trong bài thơ có tựa là Đêm
Qua Bắc Vàm Cống(1) không? Bài thơ
không có ghi ngày nhưng chắc là lâu lắm, đâu khoảng những năm 1958-1960 thì
phải và xin mời bạn:
“Đêm qua bắc Vàm Cống
Mối sầu như nước sông
Chảy hoài mà chẳng cạn
Cuốn phăng kiếp bềnh bồng
Mối sầu như nước sông
Chảy hoài mà chẳng cạn
Cuốn phăng kiếp bềnh bồng
Tôi đi xuống Lục Tỉnh
Để rắc bỏ ven đường
Tài, tâm hồn, kỷ niệm…
Giữ làm gì đau thương
Để rắc bỏ ven đường
Tài, tâm hồn, kỷ niệm…
Giữ làm gì đau thương
Đã đôi lần nhầm lẫn
Còn gõ cửa ái tình
Van nài chút lưu luyến
Của không về người xin
Còn gõ cửa ái tình
Van nài chút lưu luyến
Của không về người xin
Tôi châm điếu thuốc nữa
Đốt tàn thêm tháng năm
Chiếc bắc xa dần bến
Đời xa dần tuổi xanh
Đốt tàn thêm tháng năm
Chiếc bắc xa dần bến
Đời xa dần tuổi xanh
Nước tách nguồn về biển
Sầu lại chảy về hồn
Khi tôi vuốt lấy mặt
Nghe bàn tay trống trơn “
Sầu lại chảy về hồn
Khi tôi vuốt lấy mặt
Nghe bàn tay trống trơn “
Bắc Vàm Cống khi trời
sụp tối.
Còn
nếu bạn muốn đi theo đường sông, nói theo Phạm Quỳnh kể trong “Một Tháng Ở Nam Kỳ” (tháng 11-1918- tháng
1-1919) thì tác giả kể:
“Từ Mỹ-tho lên
Long-xuyên phải đi ngược sông Tiền-giang (Bassac ou Fleuve antérieur), đi tàu
chạy thường mất đầy một ngày, từ sáng sớm đến tối mịt. Vậy suốt một ngày được
ngắm phong-cảnh sông Mê-kong. Nhưng thật đi trên sông Mê-kong, lắm khi tưởng ở
trong cái kênh cái lạch nào, không mấy lúc có cái cảm-giác là ở giữa chồn
tràng-giang. Vì trong khoảng từ Mỹ-tho lên Châu-đốc, trong sông đầy những cù-lao
cùng bãi-cát, lắm nơi to rộng lắm, từng làng từng tổng ở vừa, đầy những cây cỏ
um-tùm, chật mất cả lòng sông, nên coi hẹp đi; tàu lại thường chạy len-lỏi ở
trong kênh trong vàm gần những nơi có dân –cư, để đỗ khách đón khách, không mấy
khi ra đến mặt ngoài sông, nên không biết sông rộng đến chừng nào.”(…)
“Chừng 7, 8 giờ tối
thì tới Long-xuyên. Long-xuyên như chia ra làm hai tỉnh khác nhau: một bên là
chợ có hàng-quán phố-xá đông, một bên là tỉnh, có dinh các quan và các
công-sở.”(2)
Nhắc
về tỉnh lỵ Long Xuyên lúc nhà văn Nguyễn Hiến Lê hồi mới vô Nam làm việc, trong
hồi ký, thầy có nhắc chuyến đò từ Chợ
Mới qua Long Xuyên lần đầu:
“Chiều mùng hai tôi
phải từ biệt bác tôi để đi qua chợ Mới, ngủ tại nhà một người anh họ, anh Thiệm,
ở Phương khê vào đây làm ăn từ mấy năm trước, có một sạp bán vải ở chợ. Sáng
sớm mồng ba tôi với anh Thiệm đi đò đạp qua Long xuyên. Đò là một chiếc ghe dài
chở được ba bốn chục người và nhiều hàng hóa, nhưng không có chèo mà có một xa
quạt ở phía sau do bốn người đạp. Đò đi rất chậm, lại phải ghé nhiều nơi đón
khách(…)
Mười một giờ trưa mới
tới Long xuyên, gặp anh Thái và anh Hách ở Nha trang vào, ba chúng tôi cùng học
một lớp, cùng làm một sở. Lại gặp một hai thầy họa đồ (opérateur) giúp việc cho
chúng tôi nữa. Mướn phòng ngủ rồi rủ nhau đi coi thị xã. Thành phố nhỏ mà buồn,
đi độ một giờ là hết. Chia làm hai khu vực: khu thương mại ở phía Nam gồm một
nhà lồng (chợ) ở sau nhà việc (cơ sở hành chánh) của làng Mỹ Phước, và gần bờ
sông Hậu giang. Chung quanh chợ có ba bốn dãy phố buôn bán, đa số của Hoa kiều,
có một đường lát đá dọc theo sông Hậu đưa xuống Cái sơn, ngoại ô, cảnh ở đây
như nhà quê rồi.
Khu hành chánh ở phía bắc; một cây cầu sắt bắc
qua rạch Long xuyên nối hai khu với nhau. Khu hành chánh gồm các công sở như
Tòa bố (tỉnh đường), sở Bưu điện, sở Công chính, Địa chính, bệnh viện, trường
tiểu học nam, nữ v.v… Chỉ có hai con đường song song nhau: Gia Long và Lê Lợi,
với vài con đường ngang, nhỏ. Đường Lê Lợi có nhiều phố lầu của công chức gần
bờ sông Hậu, nhiều cây cao bóng mát, như cây teck, cây dái ngựa (?) mùa xuân
hương thơm ngào ngạt. Đường Gia Long vắng vẻ, hầu hết là nhà sàn cách nhau có
khi tới trăm thước; nét đặc biệt là có một con kinh ở bên đường và nhiều cầu gỗ
đưa từ đường vào nhà, nhà nào cũng có vườn rộng; lắm chỗ còn bỏ hoang. Ngày nay
đường đó đã đông nghẹt nhà lớp trước lớp sau, có chỗ tới ba lớp; kinh đã lấp,
cầu đã dỡ và đường đã mở rộng thành một đại lộ lớn nhất thị xã.” (3)
Theo
như mô tả của hai vị tiền bối Phạm Quỳnh, và Nguyễn Hiến Lê thì khung cảnh tỉnh
lỵ Long Xuyên như trong hai quyển sách vừa dẫn, mãi tới năm tôi xuống Long Xuyên
đi học khoảng năm 1955, cảnh trí cũng y như vậy. Tức là Long Xuyên lấy con sông
Thoại Hà, chỗ có cầu Hoàng Diệu, chia thị xã ra làm hai phần riêng biệt là một bên
là khu vực hành chánh và một bên là khu chợ búa phố xá buôn bán tấp nập.
Cầu Hoàng Diệu (Long Xuyên)
Hồi
đó tôi còn nhớ, sau khi đậu văn bằng Tiểu Học ở trường Tiểu Học Bổ Túc làng Bình
Hòa (Mắc Cần Dưng), lúc bấy giờ gia đình Tía Má tôi còn ở nhờ bên ngoại tại
làng Mặc Cần Dưng (Bình Hòa- Long Xuyên) vì tản cư từ hồi mấy năm 1945, khi tôi
thi tuyển vào lớp Đệ Thất trường trung học công lập Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên)
thì bị rớt vì có lẽ do học dở và số thí sinh dự thi quá đông và số đậu lại lấy
quá ít, nên Tía Má tôi cho tôi xuống Long Xuyên học lớp Tiếp Liên ở trường Nam
Tiểu học tỉnh lỵ, và tôi học lớp Tiếp Liên B với thầy Ngô, thầy rất hiền và ít
đánh học trò; còn lớp Tiếp Liên A do thầy Năm dạy và thầy năm ốm ốm nhưng rất
khó và thầy Năm đánh học trò bằng roi rất đau và đứa nào học với thầy Năm cũng
rất sợ đòn mỗi khi thầy kêu lên dọn bài.
Hồi
đó tôi được Tía Má tôi gởi ở trọ nhà của dì Hai, bà con bạn dì với Má tôi, đường
Tạ Thu Thâu, con đường dẫn ra ty Công Chánh . Nhà dì Hai thuộc khu vực cua Lò
Thiêu, chỗ cầu quay, còn có tên là cầu Nguyễn Trung Trực. Sở dĩ gọi cầu quay vì
cầu thấp, có nhịp giữa được thiết kế bằng một trục quay như bánh xe với nhiều
răng cưa; mỗi khi có tàu lớn hoặc sà-lan chở nặng, công nhân có trách nhiệm giữ
cầu họ bắt đầu quay nhịp giữa của cầu cất lên cao cho ghe tàu đi qua, sau đó họ
lại quay cầu hạ xuống bình thường trở lại để xe cộ lưu thông. Từ nhà dì Hai mỗi
khi đi học, tôi phải đi bộ theo con đường Tạ Thu Thâu, đi tiếp ra tời ty Công
Chánh, qua một cây cầu sắt bắc ngang con sông chạy từ Long Xuyên vô Núi Sập và
vô tuốt trong Rạch Giá.
Bên
kia cầu, bắt đầu là đường Gia Long, phía tay mặt lần lượt là tòa án, tòa hành
chánh tỉnh, dài xuồng tới cầu Hoàng Diệu mà hồi đời Tây cầu này có tên là cầu
Henrie.
(Long Xuyên) năm 1959
Còn
từ cầu sắt chỗ ty Công Chánh, phía tay trái đường Gia Long có dinh Tỉnh Trưởng
nằm tại cái doi cặp bờ sông Hậu, rồi lần lượt có các ty Ngân Khố, ty Bưu Điện
nằm phía đường Lê Lợi; nhà đèn, rồi đến trường trung học Thoại Ngọc Hầu nằm
ngay dốc cầu Hoàng Diệu.. Ngoài những ty sở như vừa kể, khu bên này của tỉnh
Long Xuyên hồi đó còn có Ty Tiểu Học nằm
ngay trên đường Đinh Tiên Hoàng, đối diện với khu trường Nam và trường Nữ tiểu học. Ngoài ra còn
có nhà thương Long Xuyên, căn cứ hải quân nằm cặp bờ sông Hậu và hai trường tư
thục nữa là trường Quang Trung và trường Huỳnh Văn Nhứt nằm trên đường Lê Lợi.
Hồi
đời trước ở Long xuyên không có trường trung học tư thục, mãi tới mấy năm đầu
thập niên 1950, Tía má tôi cùng với nhiều phụ huynh mới hùng tiền xây cất
trường Quang Trung này hầu giúp cho học sinh thi vô lớp Đệ thất trường Thoại
Ngọc Hầu không đậu có chỗ học tiếp. Sau này trường Quang Trung được dùng làm
trường bán công Khuyến Học. Mấy năm sau này còn có thêm ba trường tư thục nữa
là trường Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm ngay trên đường Tạ Thu Thâu gần Ty Công Chánh,
trường Bồ Đề của Phật giáo gần sân vận động Cộng Hòa nằm trên đường Trần Hưng
Đạo, đường đi về hướng Châu Đốc và trường Phụng Sự của Công Giáo nằm trên đường
Tự Do gần chỗ ngã tư đèn Bốn ngọn, đối diện phía sau lưng là trường tiểu học Mỹ
Phước do thầy Thìn làm Hiệu Trưởng, mà hồi mấy năm tôi còn nhỏ nghe người lớn
thường hay gọi là “Thầy Tám Thìn”.
Nói
thêm một chút về trường bán công Khuyến Học Long Xuyên, thú thực, tôi không
biết trường được thành lập từ năm nào vì cũng ít thấy ai nhắc nhở về ngôi
trường thân yêu này của tôi mà tôi đã học suốt bốn năm trung học Đệ nhất cấp,
từ lớp Đệ Thầt đến hết năm lớp Đệ Tứ. Riêng tôi thì khi đi thi tuyển vô lớp Đệ
Thất trường trung học công lập Thoại Ngọc Hầu lần thư hai lại bị rớt và được
nhận vào học lớp Đệ Thất trường bán công Khuyến Học này khoảng năm 1956, lúc
bấy giờ thầy Thiện làm Hiệu Trưởng. Học phí hồi đó nhà trường chỉ lấy tượng
trưng mỗi tháng khoảng 60 đồng nếu học lớp Đệ Thất; và trường tọa lạc ngay
trong khuôn viên trường Thoại Ngọc Hầu và các giáo sư cũng do các thầy dạy
trường Thoại Ngọc Hầu qua phụ trách giảng dạy, nên so với học sinh Thoại Ngọc
Hầu thì học sinh trường bán công Khuyến Học chỉ khác ở chỗ là mình phải đóng
tiền học bằng nửa giá trường tư. Và khi tôi thi đậu bằng Trung học Đệ Nhất Cấp
vào năm 1960, thì lúc lên học lớp Đệ tam, tôi được nhận vào trường Thoại Ngọc Hầu
học các lớp Đệ nhị cấp cho tới thi xong hai bằng tú Tài I&II mới rời
trường.
Hồi
đó, tôi còn nhớ là khóa thi lấy văn bằng
Trung Học Đệ Nhất, tôi thi ở hội đồng thi Long Xuyên và đây là kỳ thi Trung Học
Đệ Nhất Cấp đầu tiên được tổ chức ở Long Xuyên, chứ trước đây các thí sinh Long
Xuyên, Châu Đốc đều phải xuống Cần Thơ ứng thí và đây cũng là kỳ thi Trung Học
Đệ Nhất Cấp đầu tiên bãi bỏ phần thi “Vấn đáp”, thay vào đó là phải thi các môn
thi “Nhiệm Ý”; nghĩa là có ba môn Nhạc, Vẽ và Hán Văn, thí sinh có quyền tự
chọn một trong ba môn vừa kể để làm bài thi phần các môn “nhiệm ý” này. Năm đó
tôi nhớ là tôi chon môn Vẽ và tôi vẽ cái ghế có lưng dựa. Và cũng kể từ năm đó
các kỳ thi văn bằng trung học Đệ Nhứt Cấp mỗi năm chỉ tổ chức có một kỳ thi duy
nhứt và không có kỳ thi thứ hai như các năm trờ về trước. Kỳ thi này tôi đậu
hạng thứ vì mình học trung bình thôi, hổng rớt là may mắn lắm rồi; nên tôi rất
mừng và cũng không dám mơ ước gì hơn!
Dịp
này cũng xin nhắc qua một chút về việc hình thành trường Thoại Ngọc Hầu. Theo
Hồi ký của thầy Nguyễn Hiến Lê, có nhắc:
“Năm 1949 một viên kỹ
sư Việt đồng sự với tôi ở sở Thủy lợi trước kia, bấy giờ coi cả khu Công chánh
miền Tây gồm năm sáu tỉnh, ba lần mời tôi trở về sở Công chánh, tôi đều từ
chối.
Tháng 11 năm sau, ông
Thơ (4) đã làm tỉnh trưởng Long xuyên và đã mở ở thị xã trường Trung học Thoại
Ngọc Hầu, hai lần mời tôi dạy thay ông Kính phải trở về Bộ Tư Pháp; vì giữa
niên học không dễ gì kiếm được người thay, nên tôi vì tình bạn cả hai ông ấy,
nhận lời giúp với điều kiện là cuối niên khóa nếu tôi muốn thôi thì phải cho
tôi thôi.
Tôi dạy Pháp văn,
Việt văn, Đức dục, sau thêm môn Hán văn nữa ở nhiều lớp, từ năm thứ tư trở
xuống năm thứ nhì…(…)(5)
Ở
một trang khác thầy Nguyễn Hiến Lê viết tiếp:
“Tháng 11-1950 tôi
nhận dạy cho trường Thoại Ngọc Hầu. Nguyên tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách
học rồi hướng dẫn họ để họ có thể tự học được. Điều đó rất quan trọng vì tất cả
các học sinh không biết ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài,
làm bài, không biết cách học ôn, cách tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu
ở nhà.
Dạy được ba bốn
tháng, tôi nghĩ công việc cần là nhất là phải chỉ cho họ cách học đã, và ngày
29 Tết năm Tân Mão (tháng 2-1951) tôi khởi sự viết, mới đầu chỉ định viết độ 50
trang để tòa hành chánh quay ronéo chừng 100 bản phát cho học sinh; nhưng khi
đã hạ bút viết thì ý này gợi ý kia, vần đề này kéo vấn đề khác và số trang rốt
cuộc tăng lên gắp ba.”(6)
Vậy
là trường Trung Học Thoại Ngọc Hầu do ông Nguyễn Ngọc Thơ thành lập từ những
năm cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950. Và Thầy Nguyễn Hiến Lê đã dạy
trường Thoại Ngọc Hầu ba năm:
“Đầu năm 1953 tôi
thấy nghề viết sách giúp tôi sống được, tôi chuẩn bị để chuyển nghề.”
(…)
“Giữa niên học tôi
làm đơn gởi lên ông Thơ xin thôi dạy từ cuối niên khóa đó, không ký lại giao
kèo cho niên khóa sau. Ông giữ lời hưa, nên không bác đơn, nhưng cứ ngâm đó.”
(…)
“Hết hè năm đó, ông
Thơ thấy tôi không trở lại dạy Thoại Ngọc Hầu, đành phải cho tôi thôi, nhưng
ông vẫn cố níu tôi ở lại “cho vui, bạn bè ở đây có được bao người”.
(…)
Sáng ngày tựu trường
năm đó, ngồi bàn viết trông ra ngoài đường, thấy học sinh dắt nhau ríu rít đi
ngang, tôi cũng buồn buồn nhớ bạn nhớ trò, nhớ cảnh trường. Mới dạy có ba năm
mà tôi đã quyến luyến với nghề, trách chi nhà tôi- cô Liệp- sau ba mươi bảy năm
dạy học, về hưu, chẳng buồn rầu, tuần nào cũng tới trường cũ một lần cho đỡ
nhớ!” (7)
Các vị Hiệu Trưởng lúc bấy giờ lần lượt là các
giáo sư Lê Văn Kính (như trong hồi ký của Thầy Nguyễn Hiến Lê có nhắc tên),
giáo sư Đỗ Cao Hách; đặc biệt ba vị Hiệu Trưởng tiếp theo mà tôi theo học và có
biết là giáo sư Đặng Văn Kế, giáo sư Hồ Văn Kỳ Trân và giáo sư Từ Chấn Sâm. Vì
tôi rời trường cuối niên học 1963, nên các vị Hiệu Trưởng sau này tôi không
biết nên tôi không thể nhớ được!
Dịp
này, thiết tưởng cũng nên nhắc các vị giáo sư cả hai trường trung học Thoại
Ngọc Hầu và trung học bán công Khuyến Học mà tôi may mắn được học vào nhửng năm
1957-1963 và nay nhìn lại hơn sáu mươi
lăm năm qua phải công nhận một điều là công lao các thầy cô đã dày công giảng dạy cho lớp học trò thuộc
thế hệ chúng tôi có được một nền học vấn cùng đức hạnh đủ để sống được một đời
sống tử tế giữa bao muôn trùng cám dỗ của xã hội quả là công lao của các Thầy cô
không làm sao kể cho xiết!
Trước
nhứt mà tôi còn nhớ là thầy Lê Văn Trung dạy môn Việt văn lớp Đệ Thất, thầy
Nguyễn Văn Hay dạy môn Pháp Văn, thầy Nguyễn Văn Kỉnh dạy môn Sử Địa, thầy
Trịnh Văn Mười Hai dạy Pháp văn, thầy Nguyễn Kỉnh Đốc dạy môn Anh văn các lớp
Đệ Nhất cấp, thầy Nguyễn Văn Chánh dạy môn Sử Địa năm lớp Đệ Tứ, thầy Nguyễn
Cao Đàn dạy Việt văn năm lớp Đệ Tứ, Thầy Nguyễn Văn Mùi dạy Việt văn năm lớp Đệ
Tam, thầy Văn dạy Pháp văn năm lớp Đệ Nhị và Đệ Nhất, thầy Võ Triêm dạy hai mộn
Vật Lý và Hóa Học lớp Đệ Nhị và Đệ Nhất cả hai ban A và B, thầy Nguyễn Khắc
Minh dạy Toán các lớp Đệ Nhất, cô Nguyễn Ngọc Kim Anh dạy môn Anh văn các năm
lớp Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất… Và còn nhiều thầy cô nữa, nhiều lắm …
Thưa
bạn,
Tôi rất may mắn là vào những năm 1996-1997,
tôi có biết diễn đàn Ô Thước và tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng do cô Phạm
Chi Lan làm Chủ biên; và qua đó tôi quen với bạn Phạm Thiện Mạc bên Canada vào
khoảng năm 2000 và được biết bạn Mạc là rể của giáo sư Nguyễn Cao Đàn, Thầy dạy
môn Việt văn hồi lớp Đệ Tứ. Từ đó tôi mới xin được địa chỉ gởi thư của Thầy và
biết được Thầy lúc bấy giờ đang ở bên Canada. Do vậy mà tôi đã gởi thư thăm
Thầy và kính tặng Thầy cuốn Bến Bờ Còn
Lại. Hồi ấy, ái nữ của Thầy là em Hương email cho tôi hay là khi nhận được
sách của tôi kính tặng Thầy, Thầy vui lắm! Liền mấy ngày sau, tôi rất mừng và
rất hạnh phúc nhận được lá thư hồi âm của Thầy mà hồi còn đi học tôi vô cùng
kính phục cái tài giảng dạy các bài giảng văn của Thầy vô cùng hấp dẫn mà tôi
không thể nào quên được. Xin mời bạn:
“Longueuil, ngày 19
tháng 7 năm 2000
Anh Lương Thư-trung
quý mến,
Tám mươi lăm tuổi đời, bề ngoài tuy còn
tàm-tạm, nhưng bên-trong thật đã nát-bấy, nát vì nhiều duyên-căn khác hơn là vì
những hao-mòn của cơ-thể. Nhưng ruột héo bỗng tươi lại, lòng nguội lại
xốn-xang, tôi bỗng được chích một liều thần-dược; anh xứng đáng là một
"Hoa-Đà", "Biển-Thước".
Dầu có-thể anh chưa nhìn tới một trang-sách-thuốc, cầm tới một
ống-chích, và nhất là anh hẳn không bao-giờ nghĩ bỗng có một danh-hiệu như vậy,
nhưng tôi thành-thực mà tuyên-dương anh như thế. Quyển-sách "Bến Bờ Còn
Lại" anh gửi cho kèm những dòng chữ anh đề tặng chính là liều thần-dược
ấy. Tôi không nói cái lời công-thức "xin cám-ơn", được dùng thường
quá, nhẹ mất cả nội-dung; nó không còn dung-tích để chứa cái tình-cảm nồng-nàn
trong lòng một ông-lão già-nua bỗng thấy bóng xưa nửa đời về trước của mình
lấp-loáng trong tim một học-sinh cũ mà cuộc-đời nay đã trải nhiều mưa-nắng và
đã lên hàng cha-ông, tâm-tư cũng đã ngã nhiều về quá-khứ...
Bốn-mươi ba, bốn-mươi tư năm trước
ông-già cũng chẳng còn trẻ-trung gì mà hành-nghề vẫn cứ bên-lề nghi-thức;
quần-áo chỉ vừa đủ không xú-xứa; cái caravate vì hiệu-trưởng nhăn-nhó quá phải
đeo cho qua mắt, đến cổng trường mới quàng vào, vào qua cửa lớp lại tháo ra đút
túi quần. Dạy Việt-văn, hiếm thầy dùng đến phấn, nhưng riêng ông thì sau giờ
dạy, đầu tóc, quần-áo cứ như người khuân-vác ở nhà-máy xay bột vì ông dạy là
ông vẽ, bôi bôi, xoá xoá; hình-dung cả những ý trừu-tượng bằng một biểu-đồ.
Ông-già nhớ-lại: thời ấy, những chiều
không dạy, đi xuống phố về, qua cầu Hoàng-Diệu ngược chiều với dẫy dài học-sinh
trai-gái lớn có, nhỏ có, từ trường Thoại-Ngọc-Hầu và các trường tiểu-học đang
líu-ríu nườm-nượp ra về, ông dừng bước đứng nhìn, bần-thần, lòng vui-lo
lẫn-lộn: "Ta làm gì cho những công-dân nụ-hoa này trước một thời-cuộc đang
cuồn-cuộn sóng ngầm?"
Ông nhớ-lại, do Phủ cố-vấn gửi thông-tư
vấn quốc-sách đến giáo-giới và ông Hiệu-trưởng Kế cầu-nài quá nên nể-lời, ông
đã viết thư về Phủ Tổng-Thống phân-tích tình-thế và kết-luận rằng:
"Miền-Nam được hưởng một cơn-ngưng-bão khoảng 5, 7 năm. Sự tồn-vong của
Miền-Nam trông ở một quốc-sách giáo-dục đào-tạo sao cho được những công-dân
nam-nữ có hùng-khí hăng-say vì đại-nghĩa độc-lập của quốc-gia, chứ không trông
ở việc đào-tạo những thành-phần quân-chính vì kiếm-ăn mà luồn-cúi một
chính-quyền, như người Pháp trước kia đã làm. Người công-dân mai-đây phải
phục-vụ trong tinh-thần hào-hãnh đóng-góp bảo-vệ đất-nước và tái-thiết xã-hội,
chứ không trong thái-độ bị-trị, bị-động do chế-độ thưởng-phạt mà người Pháp đã
muốn. Quốc-sách giáo-dục này mà không bừng-khai lên được thì một chính-quyền
mạnh mấy rồi cũng tan khi dông-tố quân-chính sôi-động trở lại. Nó sẽ đào-lốc
hết mọi quyền-lực nào không được nuôi bằng khí-thế của quốc-dân."
Ông Hiệu-trưởng Kế áy-náy, ngại-ngùng,
nhưng không ai khác viết cho ông, vả-lại người-viết ký-tên chịu trách-nhiệm về
ý-kiến của mình, nên ông thấy gửi-đi chỉ có lợi cho tiếng của trường mà chẳng
hại gì cho ông. Nể tình thì viết thôi, chứ thật ra đã biết trước số-phận
bức-thư cũng đến vào sọt-rát nên người-viết cũng quên đi, không lý gì đến nữa
và chăm-lo việc của mình được chừng nào hay chừng nấy.
Ngày nay nhận được sách của anh mới sực
nhớ lại một đoạn đường-đời, tâm-thần lại ngậm-ngùi..., chẳng biết tội-trạng của
mình đối đất-nước là thế-nào? Già-đầu rồi mới thấy phân-biệt phải-quấy,
nên-chăng đâu có dễ... Nhưng dầu sao tấm-lòng của anh cũng quý muôn-vàn, hiếm
thực là hiếm.
Sách anh, tôi chưa đọc hết ngay được, cả
sức óc và sức mắt đều yếu lắm rồi, chỉ mới đọc mục-lục để nắm đại-ý nội-dung và
đọc thấp-thoáng vài chương, nên hãy tạm trao-đổi với anh một vài ý-kiến
bất-chợt để anh biết sự lưu-ý của tôi.
Khen văn anh hay, dầu hình-ảnh và
"couleurs locales", nhận-xét này rất thực, nhưng người-viết sách ai
nào chờ những lời phê kiểu "thầy-đồ" ấy. Giá-trị sách anh là đã cho
nhiều người thấy những nét rất sắc của quê-hương đầy mến-thương xưa. Số người
nhờ sách anh mà bổ-túc được ít-nhiều kiến-thức thiếu hẳn cái-nền-nếp đặc-thù
của xã-hội Việt không ít. Tôi hy-vọng những học-giả văn-gia thường được coi như
sao sáng trong bầu trời văn-học, nếu họ may-mắn được đọc sách anh, họ sẽ
tỉnh-ngộ mà tự hối: "chữ-nghĩa ích
gì cho buổi ấy; áo-xiêm khiến thẹn cả râu-mày". Họ cần biết cái nền tảng gốc mà xưa-kia bị
cuốn mịt-mờ trong khói xanh-đỏ và mùi-vị của sòng-bạc, họ đâu biết tới; ngày
nay lòng trống-trải, bâng-khuâng, nhưng cũng chẳng biết ngoảnh-ngoái tìm cái gì
và tìm ở đâu.
Anh với tôi có cùng một quý-mến. Anh thì
viết: "Một phần người-nông-dân họ cảm-mến người biết chữ, họ trọng chữ
thánh-hiền, nhưng một phần khác họ cũng mến cái cách ăn-ở của mình với chòm-xóm
láng-giềng. Dù họ ít học, nhưng họ rất trọng đạo-đức, vì thế, đối với họ, dù
làm quan, làm làng, mà không khiêm-cung, không hoà-thuận, không đức-hạnh, họ
rất coi-thường. Sống ở đời đã khó, mà sống ở nhà-quê tưởng-chừng rất dễ, mà còn
khó gấp-bội-phần."
Còn tôi thì nhắc và giảng nhiều lần hai câu
thường truyền miệng trong nhân-dân: "sống ở làng, sang ở nước " và
"triều-đình dụng tước, hương-đảng dụng xỉ", rồi viết: "Trong
nhân-dân Việt có một nền giáo-dục theo sát sinh-hoạt, tạo nên nếp "sống ở
làng". Đây đúng là một nền "nhân-dân tự giáo-dục" hay bác-học
hơn thì gọi là "sinh-hoạt giáo-dục", già dạy trẻ, mẹ hay bà hát ru
con-cháu, dạy con-cháu (nhất là con-cháu gái) trong từng việc, cả cách-thức làm
và thái-độ trong việc làm. Đây mới thực sự là nền giáo-dục căn-bản của
dân-tộc... Ở đây, những bà, những mẹ, những chị và những người tuổi-tác giữ vai
căn-bản vì họ đã từng-trải và tiếp-thâu nhiều trong cuộc-đời. Có thể nhìn những
vị này là những "túi khôn" trong nhân-dân... Họ chính là những nhà
giáo-dục vậy." Lại viết tiếp sau mấy câu nhắc đến nền văn-chương thuần-tuý
Việt: "... trong nhân-dân Việt, có nhiều văn-nghệ-sỹ tài-tử vô-danh, khi
hào-hùng, khi trữ-tình, khi hài-hước châm-biếm, khi giáo-hoá...; tất cả không
thiếu những ưu-tính là tinh-tế và sâu-sắc... Họ chính là những hoạt-náo-viên,
những nghệ-sỹ làm sinh-dộng, đằm-thắm đời-sống nông-thôn làng-mạc. Nếu có nói,
chính họ là những nhà-văn-hoá đã xây-dựng và duy-trì căn-bản văn-hoá Việt, cũng
không sai sự-thực vì họ vừa truyền đạo bằng văn-chương nghệ-thuật, vừa sống
ngay trong sinh-hoạt như mọi người. Nhận-xét này có thể làm ngỡ-ngàng vài
học-giả và ít nhà tu-hành."
Tôi cầu mong cho sách anh được phổ-biến
rộng-rãi, vì đó là một quyển-sách phụ hồn rất cần-thiết cho người Việt sẽ đời
đời là công-dân của những nước mình đang kiều-cư. …”
(…)
Hy-vọng sức-khoẻ khá
hơn để có thể cùng anh nói-chuyện nhiều hơn. Anh cho tôi biết gia cảnh và
sinh-hoạt của anh hiện nay. Mong mọi an-lành đến cho anh-chị và các cháu. Phần
tôi, tính sổ cuộc-đời thì thấy nợ-nần nhiều quá, nên buồn nhiều hơn vui...
Thân ái,
Hoài-Nguyên Nguyễn
Cao-Đàn
Ngoài
ra, tôi cũng rất may mắn tìm lại được giáo sư Nguyễn Khắc Minh, dạy môn Toán
lớp Đệ Nhứt B của tôi, qua một anh bạn có bà xã là cựu học sinh trường nữ trung
học Trưng Vương (Sài Gòn); vì sau khi thầy Nguyễn Khắc Minh rời trường Thoại
Ngọc Hầu (Long Xuyên) thì Thầy về dạy ở Trưng Vương cho tới tháng 4 năm 1975;
nên tôi đã liên lạc được với Thầy và hằng năm cứ tới ngày Tết vợ chồng tôi luôn
ghé thăm và mừng tuổi Thầy Cô. Vui lắm!
Từ trái, giáo sư Lê
Minh Đạt, học trò cũ,
giáo sư Nguyễn Khắc
Minh,
nhà thơ Phan Xuân Sinh
với ly rượu mừng47 năm
thầy trò gặp lại.
và học trò cũ tại nhà
thầy.
Từ phải, hình đứng: Giáo sư Nguyễn Khắc Minh và Cô Mai
(hiền thê của Thầy Minh) trong dịp dự buổi giới thiệu
sách của
anh Phan Xuân Sinh tại Houston, Hoa Kỳ.
Và
dịp này, con xin được kính dâng lên các Thầy, Cô, những bậc ân sư của con, lòng
biết ơn vô bờ bến của một đứa học trò già, lòng con lúc nào cũng nhớ công ơn
dạy dỗ của các Thầy, Cô mãi mãi, không phai lợt.
Thưa
bạn,
Còn
các con đường khác của chợ Long Xuyên có thể kể thêm là đường Phan Đình Phùng
ngay trung tâm tỉnh lỵ giữa có ty Thông Tin, hai bên có nhà sách Vinh Ba và nhà
sách Long Xuyên đối diện nhau qua ty thông tin này mà hồi còn đi học tôi ưa ghé
vô hai nhà sách này coi sách cọp. Ngoài ra Long Xuyên hồi tôi còn nhỏ còn có
nhà sách Yến Phương nằm trên tại góc đường Thoại Ngọc Hầu và đường Thành Thái
(?), và nhà sách Á Châu của ông chủ nhật báo Tiếng Chuông nằm chỗ dốc cầu Hoàng
Diệu chạy xuống tới nhà thờ lớn của Long Xuyên ngày nay; dường như đó là đường
Đồng Khánh chạy ngang qua nhà của giáo sư Đỗ Cao Hách, thầy có một thời làm
Hiệu Trưởng trường Trung Học công lập Thoại Ngọc Hầu và thầy dạy toán nổi tiếng
ở Long Xuyên mấy năm 1950- 1960.
Trước
mặt ty Thông Tin là công trường Trưng Nữ Vương, lâu ngày người ta gọi tắt là
công trường Trưng Vương với hai bên phố xá ngăn nắp cất cùng một kiểu bằng nhau
không có căn phố nào trồi ra hoặc sụt vào như nhiều thành thị khác. Có thể nói
vào thời bấy giờ, đây là một trong những đặc điểm tiêu biểu của tỉnh Long Xuyên
về phố xá ở chợ.
Thời
này tôi nhớ phía bên chợ ngoài rạp chớp bóng Tân Đô như trên có nhắc, Long Xuyên
còn có thêm rạp chớp bóng Thanh Liêm, và sau này khoảng năm 1957-1958 có thêm
rạp hát Minh Hiển, rạp này các đoàn cải lương về đây hát nhiều hơn là chiếu
bóng. Khoảng những năm 1960-1970, phía trước rạp Minh Hiển, nơi công trường
Trưng Vương còn có bức tượng Bông Lúa rất cao do điêu khắc gia Mai Chửng thực
hiện, tượng trưng cho sự trù phú của Long Xuyên là nhờ lúa gạo.
tại công viên Trưng Vương tỉnh lỵ Long Xuyên
do Điêu khắc gia Mai Chửng xây dựng năm 1970.
(Hình do nhà văn Khiêm Cung-Dương Văn Chung (Úc Đại Lợi)
sưu tầm.)
(Nguồn:Thatsonchaudoc.com)
Hồi
đó khoảng năm 1957 hoặc 1958 (không nhớ rõ), có lần tại công trường Trưng Vương
này dân chúng, công chức các ngành, kể cả binh lính và học trò toàn tỉnh Long
Xuyên được tập trung xếp hàng từ sáng sớm để đón rước Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đến kinh lý và dường như lần đó có cả triển lãm nông nghiệp mà tôi nhớ có buồng
chuối dài tới hơn trăm nải nữa.
Sau này tôi có trồng loại chuối trăm nải này
và buồng chuối trăm nải đang ở tuần thứ ba.
(Do anh Lê Minh Đạt trồng, hình minh họa)
Buồng chuối trăm nải
sau một tháng trổ bắp
và còn đang tiếp tục trổ thêm rất mạnh mẽ.
(Do anh Lê Minh Đạt trồng, hình minh họa)
và còn đang tiếp tục trổ thêm rất mạnh mẽ.
(Do anh Lê Minh Đạt trồng, hình minh họa)
Nhớ dường như lúc bắt đầu lên lớp Đệ Lục, Tía Má tôi đã hồi cư về lại làng Tân Bình, quận Lấp Vò sau mười mấy năm loạn lạc xa quê, tôi được Tía Má tôi tìm được chỗ cất cái nhà nhỏ trên đất của cô tôi nằm trên đường liên tỉnh lộ số 9, gần cầu rạch Cái Sơn, để anh em tôi ở trọ để đi học. Từ ngoài đường muốn đi vô nhà phải đi ngang qua cây cầu khỉ vì cặp theo con đường liên tỉnh số 9 có con kinh lộ rất rộng cỡ năm hoặc mười thước bề ngang. Tôi bắt đầu di chuyển từ nhà dì Hai tôi ở cầu Nguyễn Trung Trực về ở nhà nhỏ này từ ấy.
Khi
ở căn nhà nhỏ này, chúng tôi phải vừa đi học vừa tự nấu cơm ăn. Hồi đó học trò mỗi
ngày học hai buổi; sáng từ 8 giờ tới 12 giờ tan học; thế là vừa nghe xong tiếng
trống tan học, chúng tôi vội vàng lội bộ về nhà lo nấu cơm; ăn cơm xong nằm
nghỉ một lát là chuẩn bị đi học buổi chiều vào khoảng 2 giờ là vào lớp và chiều
về lại nấu cơm chiều; còn buổi tối thì lo học bài cho ngày học ngày mai. Cứ thế
tuần tự hết ngày này qua ngày khác.
Về
việc gạo muối thực phẩm cứ cuối tuần chúng tôi đạp xe về quê Lấp Vò thăm nhà và
chiều chủ nhựt lại sửa soạn đạp xe lên Long Xuyên với đủ thứ vật thực mang lên
Long Xuyên để ăn trong tuần tới như nước mắm, cá khô, cam quít xoài mận…, tức
là ở nhà có gì thì mang theo làm lương thực cùng một ít tiền má tôi cho dằn túi
để mua thêm cá thịt hoặc trứng vịt khi cần. Như vậy tính từ Long Xuyên đi tới
bắc Vàm Cống là 9 cây số; từ Vàm Cống vô Lấp Vò là 3 cây số; qua đò và vô tới
nhà tôi là 3 cây số nữa; vậy từ Long Xuyên về nhà tôi phải mất 15 cây số; vị
chi cả hai lượt đi và về, từ Long Xuyên về tới nhà tôi và ngược lại, tôi phải
đạp 30 cây số cho mỗi lần về nhà thăm nhà.
Thường
thường mỗi lần đi chợ tôi hay mua một ký lô cá sặt non, hoặc mua một ký lô cá rô non, hoặc mua một con cá
lóc hơi trọng trọng, cỡ gần một ký lô về kho mặn ăn được vài ba ngày; nhưng
thường thường cũng ưa luộc trứng vịt giằm nước mắm ăn với cơm. Về sau, có thêm
ông dượng Sáu bà con bên Lấp Vò cùng ở chung với đứa con trai lớn của dượng cũng
học trung học. Anh em chúng tôi và dượng tôi cùng ăn cơm chung. Dượng sáu làm
thư ký hành chánh ở Tòa Hành Chánh tỉnh, tánh tình dượng rất hiền, rộng rãi
nhưng rất nghiêm. Mấy đứa tôi đứa nào cũng ớn dượng dù dượng không bao giờ rầy
la gì; và có lẽ nhờ vậy mà tụi nhỏ chúng tôi hồi đó chỉ lo đi học hổng dám đi
chơi hoặc lêu lỏng như nhiều đứa trẻ khác cùng lứa...
Hồi
đó ở dưới quê nhà nghèo nào muốn cho con lên tỉnh học ai cũng lo cụ bị có chỗ
cất một căn nhà nhỏ để con cái tự nấu cơm lấy như vậy thì đỡ tôn kém cho gia
đình, mà cũng ngầm ý của người lớn là để cho trẻ nhỏ đi học tự nấu lấy cơm ăn
như vậy sẽ biết cực nhọc như thế nào và từ đó biết thương cha mẹ hy sinh lo cho
mình lên tỉnh đi học và rán mà lo học hành cho tới nơi tới chốn.
Các
bạn ở xa tuốt bên Chợ Mới, hoặc tuốt dưới Thốt Nốt, gia đình các bạn ấy cũng
tìm chỗ cất nhà cho con đi học như vậy. Có lẽ nhờ tự nấu cơm ăn từ năm lớp Đệ
Lục đến hết năm lớp Đệ Nhất, nên tôi có kinh nghiệm nhúm lửa rất mau, nhứt là
nhúm lửa khi nấu cơm bằng than đước thì lại càng lâu bén lửa, nên phải biết
cách làm cho than mau cháy để kịp có cơm ăn để còn kịp đi học buổi chiều nên
tôi hồi đó nấu cơm, kho cá rất rành nghề.
Hồi
đó, chỗ bùng binh đèn bốn ngọn là giao điểm giữa con đường Liên tỉnh lộ số 9
Cần Thơ-Long Xuyên với con đường lộ trải đá đi vô miệt Vĩnh Chánh, Phú Hòa, núi
Sập có cái bảng quảng cáo hiệu kem đánh răng Hynos. Chỗ này ngày trước còn lung
vũng đầy cỏ mồm, cỏ ống và cô dượng tôi có một bầy trâu khoảng 10 con được cầm
cho nằm hầm ở đó. Ông anh con của cô tôi có cất cái chòi che bằng hai tấm cà
rèm để ngủ giữ trâu, nên có nhiều đêm tôi hay ra chỗ đèn bốn ngọn học bài và
ngủ lại trong cái chòi ấy tới sáng, và vào khoảng ba bốn giờ sáng khi nghe xe
đò Long Xuyên đi Cần Thơ hoặc Rạch Giá bắt đầu chạy ngoài đường là tôi phải
thức dậy cụ bị về nhà thay quần áo chuẩn bị đi học.
Nhớ
hồi đó, dường như là năm lớp Đệ Ngũ, mùa nước lên năm này nước sông Cửu Long
dâng rất cao, nhiều con đường lộ đá từ nhà trọ của tôi lên tời cầu Hoàng Diệu
bị ngập rất sâu và nước ngập như vậy nhưng học trò chúng tôi vẫn phải lội nước
đi học.
Hồi
đó, phần đông học trò đi học bằng xe đạp nhưng vì nhà nghèo nên tôi suốt thời
kỳ học tiểu học rồi lên trung học đều đi bộ nên những mùa nước lụt như vậy đi
học rất là cực; có lần nước ngập ngang tới đầu gối, chúng tôi phải cởi quần dài
quấn ngang qua cổ lội qua khỏi chỗ nước ngập, và khi qua khỏi rồi lại lựa chỗ nào
đường khô ráo và mặc lại quần để đi tiếp đến trường. Hồi ấy đi học rất cực như
vậy nhưng rất vui. Tôi nhớ dường như hồi đó tôi học hành chỉ trung bình nhưng nhờ
nhà nghèo nên từ lớp Đệ Tam tới lớp Đệ Nhất tại trường Trung học Thoại Ngọc Hầu
tôi được nhận học bổng bán phần của nhà trường với số tiền mỗi tháng là 200
đồng; nhưng tới cuối năm tức là tới kỳ nghỉ hè thì nhà trường mới phát tiền cho
mình. Hồi đó mỗi lần tôi nhận được tiền học bổng 1.800 đồng (200$ x 9 tháng)
tôi mừng lắm và đem về đưa hết cho Tía Má tôi để Tía Má tôi vui vì đó là số
tiền rất lớn mà nhiều khi học trò nghèo như tôi có nằm mơ cũng không có được!
Chắc
có lẽ tôi sẽ kể thêm với bạn về một chút không khí trong các lớp học hồi xưa mà
tôi đã từng trải qua từ lớp nhỏ cho chí tới các lớp đệ nhị cấp những năm đầu
thập niên 1960 để bạn hình dung ra được hồi đó học trò ở Long Xuyên học hành
như thế nào!
Trước
nhứt là đồng phục của học sinh thời ấy chắc ai ai cũng biết là nữ sinh thì mặc
áo dài trắng, quần dài trắng, chân đi guốc vông, trên ngực áo mang phù hiệu của
trường thêu bằng vải; còn nam sinh thì mặc áo trắng ngắn tay hoặc dài tay; áo bỏ
vô quần kaki màu xanh dương, có dây nịt; chân đi giày bata trắng, trên ngực áo
hoặc túi áo mang phù hiệu thêu bằng vải của trường hoặc mang phù hiệu bằng
thiếc nền màu xanh lá cây đậm với tên trường viền quanh cùng với hai lá dương
liễu hoặc bông lúa (?) ôm quanh một cuốn sách được mở ra dưới ngọn đuốc sáng
rực!
Đặc
biệt là học trò hồi ấy khi lên trung học rồi thì không còn bị đòn nhưng nếu có
lỗi thì bị cấm túc, nhứt là tội đi học trễ. Có một câu nói của thầy Trịnh Văn
Mười Hai mà thầy luôn nhắc và học trò trường Thoại Ngọc Hầu thời đó đứa nào
cũng nhớ là: “Trước giờ chưa phải là giờ,
sau giờ là hết giờ, giờ là giờ!”
Thứ
nữa là mỗi lớp học, lớp nào cũng như lớp nào, đều kê ba dãy bàn, loại bàn dành
cho học trò, mỗi bàn có hai hoặc ba chỗ ngồi và có học tủ
ở phía dưới dành để cặp hoặc sách vở. Hồi xưa, trai gái học chung lớp với nhau.
Nhà trường sắp xếp một dãy bàn dành cho
nữ sinh và hai dãy bàn dành cho nam sinh, và trên tường luôn luôn có hai câu
phương ngôn này là chính:
TIÊN
HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN
HỌC
NHƯ CHÈO THUYỀN NGƯỢC NƯỚC, KHÔNG TIẾN ẮT PHẢI LÙI.
Dường
như học trò ngày trước còn được sự giáo dục rất nghiêm từ gia đình là“nam nữ thọ thọ bất thân”, nên suốt mấy
năm học trung học tôi hổng thấy học trò nam và học trò nữ, dù học chung lớp lớn
ở các kỳ thi Tú Tài cũng vậy, ít ai dám trò chuyện một cách thân mật. Sau này
khi rời trường rồi, tôi cũng không nghe thấy kể những mối tình học trò giữa các
anh chị bạn cùng lớp họ khắng khít với nhau. Dường như hồi đó, học trò chỉ lo
học là chánh, ngoài ra hổng nghĩ ngợi hoặc yêu đương lang thang gì khác. Sau
này, tôi có dịp gặp lại các bạn cùng học cũ đã đỗ đạt và vào đời rồi cưới vợ
thì các anh ấy cũng cưới vợ ở những nơi khác chứ hổng thấy ai cưới vợ là bạn
học cũ cùng lớp thời còn là học trò. Đó, theo tôi cũng là một nét rất đặc biệt
của thế hệ học trò thời xưa lúc chúng tôi còn đi học. Quả đúng là “nam nữ thọ thọ bất thân” thật sự vậy!
với bờ sông Cửu Long
nước cạn xa bờ,
để trơ những bụi cỏ
bên bờ sông cạn.
Hồ Bình Đức (Long
Xuyên) đường Lê Lợi,
bên cạnh công viên
Nguyễn Du ngày nay nước cũng xa bờ .
Bạn
ơi,
Nhắc
tới Long Xuyên mà không nhắc tới sự trù phú của Long Xuyên thì tôi nghĩ có lẽ
bạn sẽ trách rằng tôi kể chưa hết.
Vâng,
thưa bạn, ngày xưa cho chí đến mấy lúc sau này, mỗi khi có ai nhắc về Long
Xuyên người ta thường hay gọi vùng đất ấy là đất Phật. Riêng tôi đã gắn bó với
địa danh Long Xuyên khá lâu và tôi nghĩ Long Xuyên là một vùng đất rất yên bình
dù cho có lúc chiến tranh đi qua nhiều miền đất nước. Long Xuyên may mắn là
cuộc chiến hai mươi năm khắp miền Nam không làm cho Long Xuyên bị hư hao gì. Và
đặc biệt phải nói rằng Long Xuyên là một vùng đất rất trù phú về lúa gạo và tôm
cá.
Hồi
xưa mấy năm tôi còn rất nhỏ, khoảng năm 1948-1949, tới mùa cá ra sông vào tháng
10, tháng 11 âm lịch, cả một vùng rộng bao gồm từ các cánh đồng lớn như đồng Ba
Thê, Núi Sập, Định Mỹ, Ba Bần, Kinh Xáng Bốn Tổng, Phú Hòa, Vĩnh Chánh; rồi bọc
lên phía trên từ Chắc Cà Đao, qua Mặc Cần Dưng, vô Cần Đăng, qua Hang Tra, lên Trà
Kiết, vô cầu Số 5, vô tuốt trong Tri Tôn (Xà Tón) là cả một vùng cá tôm không
biết cơ man nào mà kể cho xiết.
Hồi
ấy bạn biết không, tới mùa cá ra, cá dại là xuồng ghe vó cất, vó gạt, lưới dày,
lưới thưa, lọp đường ven, lọp đăng bửng, câu giăng, câu cắm, đâu đâu cũng cá là
cá. Nhớ có lần Tía tôi cùng với ông cậu Ba, bà con cô cậu với bên Má tôi, hùn
nhau mua tôm về rang muối và chở lên Sài Gòn để bán. Tôm nhiều quá, muốn có chỗ
rộng tôm, cậu Ba và Tía tôi phải ví đăng ngay trước sân ngập nước và tôm mua về
cứ đổ vào rộng ở đó và chờ khi nào muốn rang thì bắt chảo đụn lên rang.
Hồi
đó, cá tôm chở đi Sài Gòn bán cũng từ các cánh đồng vừa kể là nguồn cung cấp
chánh. Các ghe tàu chở cá từ cầu số Năm, từ Tri Tôn, từ Núi Sập chở về Long
Xuyên chỗ bến tàu ngang nhà thương Long xuyên; ở đây có xe hàng chờ sẵn khi cá
tôm đủ chuyến là bốc lên xe và chảy xuống bắc Vàm Cồng và chạy thẳng lên các
vựa trên Sài Gòn. Sau này tôi cũng thấy ghe cá có chở cá tới các vựa ở bến bắc
Vàm Cống phía bên Lấp Vò, ở đây cũng có xè hàng chờ sẵn để chở cá về Sài Gòn.
Còn
lúa gạo nữa. Hồi đó cho dù làm lúa một năm một mùa nhưng những cánh đồng lớn
như tôi vừa kể cũng là những vựa lúa rất sung túc mà các ghe chài của ông Bang
Kế lúc nào cũng sẵn sàng đậu ngoài khơi trên sông Hậu Giang ngang chợ Long
Xuyên để chuyển lúa về Sài Gòn. Hồi đó vùng Long Xuyên có rất nhiều chủ đất lớn
nhưng làm ra lúa gạo là do tá điền; đặc biệt vùng mặc Cần Dưng có ông Nhà Lầu
là giàu nhứt và ruộng lúa nhiều nhứt nên nhắc tới Long Xuyên là nhắc tới gánh
họ Lâm của mấy bang, mấy ông chủ điền này.
Thưa bạn,
Tôi vừa kể để bạn nghe chơi một chút về Long Xuyên của
tôi và nhân dịp này, tôi xin nhắc cùng bạn về những ngày đầu đứa học trò làng
như tôi mới lên tỉnh đi học, vậy mà nay cũng đã qua rồi hơn sáu mươi lăm năm.
Hồi đó tôi học không được khá, và nếu muốn nói là dở cũng chưa vừa, nhưng nay già
lụm cụm rồi ngồi nhắc lại với bạn về những ngày tuổi nhỏ ấy sao lòng tôi nghe như
có chút gì bâng khuâng, bùi ngùi về một nỗi nhớ rất dễ thương của một thời non
dại, quê mùa…
Mong bạn thông cảm và bỏ qua cho những gì hơi dài
dòng, lượm thượm nhe!
HAI TRẦU
Houston,
ngày 06-12-2019
Cước
chú:
1/ Tô Thùy Yên Thơ
Tuyển, Tác giả xuất bản 1997, trang 14.
2/ Một Tháng Ở Nam
Kỳ, từ tháng 11-1918-tháng 1-1919, trích trong Hành Trình Nhật Ký của Phạm
Quỳnh do nhà An Tiêm xuất bản lần đầu tại Paris năm 1997; in lần thứ hai tại
San Jose, năm 2002, trang 162 và trang 165.
3/ Trích Hồi Ký
Nguyễn Hiến Lê, tập I, nhà xuất bản Văn Nghệ, California, Hoa Kỳ, năm 1989,
trang 172.
4/ Ông Nguyễn Ngọc
Thơ lúc bấy giờ làm Tỉnh Trưởng; thời Đệ I Cộng Hòa ông làm Phó Tổng Thống, nhà
nằm trên đường mé sông Long Xuyên, từ bắc An Hòa đi xuống một đỗi.
5, 6 và 7/ Hồi Ký
Nguyễn Hiến Lê (sđd) tập II, các trang 19, 32, 52, 53, 54 và 55.
No comments:
Post a Comment