Tuesday, November 12, 2019

NIỀM HY VỌNG CỦA GIẤC MƠ


Lê Lạc Giao

Ngôn Ngữ Xanh. NTKhánh Minh

Tôi nhận được tập thơ “Ngôn Ngữ Xanh” của nữ thi sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh tặng vào những ngày lập thu đầu tháng mười. Khi nhìn tên tập thơ, tôi nghĩ ngay đến nỗi niềm hoài vọng của tác giả. Tuy quen biết Khánh Minh chừng năm năm qua người bạn làm thơ Nguyễn Lương Vỵ, tôi lại biết rất ít về nhà thơ nữ cùng thế hệ này cũng vì điều kiện sinh sống có tính khép kín tại Hoa Kỳ. Về sau có đi uống café vài lần và nói chuyện với Khánh Minh, tôi càng khâm phục cô hơn nữa. Một người mà thể chất rất tệ vì bệnh tật, càng về sau đi đứng khó khăn cùng phải lo quán xuyến gia đình vẫn không ngăn cô sáng tác. Và các tập thơ đều đặn ra đời như thách đố với tình trạng tiêu cực của bản thân. Ngôn Ngữ Xanh là tập thơ thứ mười hai của nhà thơ Nguyễn thị Khánh Minh.
Một cách tổng quát, làm thơ cũng như viết văn, hội họa hay điêu khắc đều là sáng tác nghệ thuật nhưng làm thơ tính chắt lọc cao cũng bởi bản chất đặc biệt cô đọng của nó. Đọc một quyển sách, xem một bức tranh so sánh với đọc một bài thơ chứ chưa nói đến cả tập thơ, tính thưởng ngoạn đòi hỏi nhiều hơn nếu không muốn nói sâu lắng hơn về mặt nhận thức. Vì sao? Vì thi sĩ là nhà phù thủy chữ nghĩa! Nói đến đây hẳn chúng ta không thể nào quên một “Truyện Kiều” của Nguyễn Du hay những bài thơ của Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại, Bích Khê, Quang Dũng…
Tập thơ “Ngôn Ngữ Xanh” miêu tả trung thực ý nghĩa “thi sĩ là nhà phù thủy chữ nghĩa”. Tập thơ có ba phần, tuy tách biệt nhưng liên kết một thể thống nhất: Phần một, Phút mong manh giữa những từ. Phần hai, Ký ức Xanh và phần ba, Ngôn Ngữ Xanh.
Cả ba phần gồm 69 bài thơ, có những bài cũ hiệu đính, cập nhật lại như để hoàn chỉnh những khiếm khuyết trước. Tuy nói như thế, nhưng thơ tạo ra từ cảm hứng cho nên những bài thơ hiệu đính có thể nói còn mới và hay hơn nữa. Với Ngôn Ngữ Xanh, trước tiên vai trò nổi bật của từ, thứ làm nên ngôn ngữ xanh, trong đó còn cho thấy tương quan cảm xúc, cảm hứng, và từ để có một hoàn chỉnh thơ. Nguyễn thị Khánh Minh đã sử dụng từ để vẽ một bức tranh đời bằng thơ vì trong tập thơ này đã miêu tả khá hoàn chỉnh quá khứ và hiện tại của cô. Trong khi làm thơ chính là Viết tương lai của quá khứ, mà nói về tương lai, sáng tác mang tính hoài vọng, ước mơ thế nên Ngôn Ngữ Xanh là thứ ngôn ngữ hy vọng.
Tôi muốn nói sâu xa hơn, một bức tranh hình thành từ Tiêu Đề “Phút mong manh giữa những từ” gồm 5 bài thơ. Bắt đầu bài 1 đã nói lên khá trọn vẹn quá trình sáng tác bài thơ, nguồn cảm hứng có được từ hệ quả cảm xúc dù:
Như thể mỗi ngày
Một trò chơi

Trò chơi mà Khánh Minh nói chính là Sáng tạo nếu không nói hàm chứa triết lý của một biểu tượng. Biểu tượng Thi Ca (Poetry) làm nền nên đa phần những bài thơ trong phần một là những metapoems (tạm dịch là những bài Siêu thơ). Thực chất của metapoem là cuộc hôn phối của Từ với Thi Ca bởi chính bản chất Thi Ca xuất phát từ hình thái cấu trúc của từ (thơ/poem). Các bạn hãy tưởng tượng có một bàn cờ, trên bàn cờ tập trung những con chữ, bằng cảm xúc (Emotion, Feeling, Mood) nhà thơ vận dụng đôi tay sắp xếp những con chữ để nó trở thành bài thơ.  Cô dùng chữ “Tôi rơi. Đơn độc. Hạnh phúc” ý nghĩa tương đương: tôi viết bài thơ trong cô đơn, lẻ loi nhưng hạnh phúc, dĩ nhiên không hề bi quan mà hy vọng. Và sáu câu thơ kế đủ diễn tả hết bố cục của một thái độ có từ xúc cảm, vượt qua thứ thực tại như là vết thương:


Tôi rơi. Đơn độc. Hạnh phúc
Nơi bài thơ tôi viết. Nơi bài thơ tôi đọc
Tôi giấu mình. Vui sướng
Trong lẻ loi tiếng khóc
Trong mơ mộng tự do
Vạt nắng nhảy nhót sau ô cửa kính
Háo hức bùng vỡ

Từ đó bắt đầu cuộc hành trình, dù nó kéo dài hay lặp đi lặp lại nhiều lần cũng vẫn căn bản là bao phút mong manh giữa những từ; và điểm đặc biệt là những biểu hiện hướng nội hay ngoại đều mang đến một hệ quả là khát vọng xuất xứ từ đối kháng để có một chọn lựa:

Tôi đi
. . .
Cho dù. Niềm tin tôi vẫn ngợi ca
Có làm tôi vấp ngã
Cho dù. Bài thơ không còn là tấm lòng che chở
Cho dù dự báo của vết thương
Cho tôi biết cuối con đường cũng không phải là nơi đến
Tôi vẫn đi. Với bước chân
. . .
Tôi nhất định đi
Cánh cửa ấy lúc nào cũng chờ
Cho tôi đi tới. Cho tôi về nương tựa
- Cánh cửa trái tim tôi -

Cho nên bắt đầu một trò chơi mà tính liên lỉ rất rõ: Tôi đi… tôi vẫn đi… tôi nhất định đi… tôi không quay về nữa đâu… tôi nhất định đi, như nhắc nhở chính mình một quyết tâm phải vượt qua trong mỗi chặng của cuộc hành trình để đến đích điểm, dù đích điểm có là thứ vết thương cũng không hề làm cô chùng bước. Câu cuối cùng Cánh cửa trái tim tôi như để hoàn tất cấu trúc (structure) của bốn bài thơ với tiêu đề Phút Mong Manh Giữa Những Từ: xúc cảm (emotion/feeling) bắt đầu, và tâm tư (mood) hoàn tất. Bài thứ hai có những câu sau:

Bài thơ hoàn tất. Là một điểm hẹn quyến rũ
Nhưng phút mong manh giữa những từ
Lại là lúc đóa hoa đang nở. Đang tỏa hương

Bài thứ ba rõ hơn về một cái self-tương quan con chữ/thi ca:

Khi viết xong bài thơ
Đôi khi. Tôi khóc
Có phải vì lời đã nói về hạt nước mắt chưa rơi
Bị giam giữ trong lòng đêm ma mị
Khi viết xong bài thơ
Tôi thường hay xóa

Dường như tôi sợ bóng tôi
Giãy chết giữa những con chữ đói
Bầy ý nghĩ tử thi
Làm tôi buồn như vừa đưa ai về huyệt mộ

Khi chấm hết bài thơ
Tôi hụt hẫng. Như chưa thể xong lời

Nơi đây vai trò con chữ làm nổi bật ý nghĩa thi ca vì một bài thơ hoàn tất chưa phải chấm hết là thứ metapoem. Thế nên những con chữ, từ (letter, word) mang số phận bài thơ và phải mặc cả (deal) với chính bản chất/chủ đề của nó (metapoetry/siêu thi ca). Nói sâu xa hơn bởi đỉnh cao triết lý là thi ca nên thơ chính nó có sứ mệnh giúp con người tồn tại, sống sót nếu mô tả sâu xa hơn: con người trong cơn giông bão cuộc đời.

Trong phần một, mười tám bài thơ đại biểu cuộc hành trình của con chữ qua cảm xúc biểu hiện thi ca. Tuy nhiên hơi hướm tượng trưng rõ nét và theo thứ tự một quá trình. Bài Tấm Lòng mở đầu:

Thương điều tôi viết
Hồn thơ nhập xác chữ
Thương điều tôi tìm
Hạt muối trao lòng biển
Thương điều tôi hỏi
Đêm khuya cúi đầu không nói
Thương điều tôi quên
Con trăng để bóng bên thềm
Thương điều tôi đợi
Hạt mầm đâu đó nhú lên…

Và bài Thơ chính là một thực tại phép mầu: với Nơi Không Gian Thơ/Có thời gian cho lời đọng lại
Để rồi: Nơi bóng mát thơ/Khoảnh khắc chữ cho lời rơi xuống/Nghe lắng nghe. Quán tự tại yêu thương
Nhóm lửa hy vọng: Nơi lửa thơ/Những con chữ nhóm lời cháy đỏ/Thắp mặt trời cho những giấc mơ
Nuôi nấng ước mơ: Nơi biển thơ/Những con chữ bung lời nắng dậy/Đó là ban mai mỗi ngày được thấy
Và ba câu kết: Bật lên triều xanh của lời/Chắp lên đôi cánh của lời/Bay xa bay xa. Trái tim của một người trao gửi.

Những bài thơ tiếp theo kết quả hình thành từ cảm xúc theo thời gian. Có thể rất ngắn, có thể cả một đời người nhưng lột hết ý nghĩa vai trò của từ, chữ, lời mang tính định phận trong chiếc khung thi ca: từ thất vọng nhỏ nhoi, nuối tiếc, đau buồn, tiêu cực đến cực đại bình an hy vọng của chính bản chất thơ nếu hiểu Thi ca cứu rỗi con người mỗi ngày (Poetry saves the world every day) theo cách nói của Rowan Williams. Ngoài khía cạnh kỹ thuật của thi ca, nội dung các bài thơ trong phần 1 Phút Mong Manh Giữa Những Từ sáng tạo qua màu sắc tâm lý đa dạng của chính bản thân nắm bắt từ cảm xúc. Những xung động bắt buộc ngoài biểu hiện thực tại cảm xúc ý thức, vô số biểu hiện cảm xúc vô thức chồng chất từ quá khứ tạo nên những bài thơ nặng tính độc thoại kể lể (narrative monologue) nếu không quen người đọc khó chia sẻ cùng tác giả.  

Thơ
Là dòng sông. Cho tôi trôi đi
Là tiếng khóc. Cho tôi rơi lệ
Là dấu mốc. Nhắc tôi trở về
Là bàn tay. Cho tôi nắm lấy
Nhưng thường khi. Nó là bóng đám mây bay
Hay thật đơn sơ:

Thơ,
Có khi Nó cõng tôi qua cơn phiền muộn
Cho tôi giấc mơ bình yên
Với những lãng quên cần thiết
Đôi khi. Nó khiến tôi thành con bé. Mơ mộng cả tin
Có khi lại già nua khắc nghiệt
với những điều làm tổn thương lòng tin cậy
. . . . .
Lời tôi viết
Là tấm gương soi cảm xúc tôi từng lúc
Tôi viết nên bài thơ
Chẳng phải bằng con ruồi giả
như người ta câu cá

Những Từ biến thành Chữ chuyển qua Lời hay ngược lại là một quá trình mang tính sống còn, tồn tại tự nhiên thế nên Thi Ca khiến không có gì xảy ra (Poetry makes nothing happen – W.H. Auden) có nghĩa Thi ca là cách xảy đến, diễn ra trong dòng chảy thời gian. Ở đó có bao thực tế đau buồn mất mát hay rối bời hạnh phúc, hiện diện nhiều góc cạnh khuôn mặt cuộc đời. Có lắng nghe, nhìn thấy, thẩm thấu để rồi biến thành lời, thành ngữ điệu để chủ thể tồn tại và giúp mọi người tồn tại. Ý nghĩa Thi ca được hình thành như thế.

Bài thơ Đường Mật và hầu hết những bài thơ còn lại biểu đạt ý nghĩa xúc cảm:

Trong mật của Nắng
Hoa hướng dương nở
Trong say men Thơ
Tôi đắm

Nắng và Thơ
Đường mật
Tôi và hoa hướng dương
Buông mình. Rơi. Và tan

Và bài 3, 4 những vấn nạn chính của Lời với đầy đủ tính tích cực, tiêu cực, mâu thuẫn xuất phát từ cảm xúc:

Hút mãi vực sâu
Lời thành bóng tối
Lăn hoài nỗi đau
Lời thành viên cuội

Vậy có phải cảm xúc khởi thủy của ngôn từ, để rồi qua chữlời mới có những câu thơ, bài thơ mà sự sống hàm chứa bên trong? Bài thơ “Sợi tơ mong manh” cho thấy tương quan và kết quả từ cảm xúc, chữlời hoàn tất sứ mệnh thi ca, cổ vũ cho châm ngôn “Thi ca khiến không có gì xảy ra” để có những bài thơ hy vọng.

Cảm xúc sóng dội
Trôi tôi trên biển của lời
Cảm xúc dao sắc
Cắt tôi nơi trần trụi của lời
Cảm xúc lửa bỏng
Đốt tôi nơi rực cháy của lời
Cảm xúc gió bay
Thổi tôi thành lời của bài thơ hy vọng

Bài Cõi Lời là thứ cõi đời qua biểu tượng Lời trong bài 1:

Một vòng sinh tử trêu ngươi
Đành thôi ăn dối cõi lời mây bay
Mai kia mốt nọ. Họa may
Còn hơi thở ấy. Mà bày cuộc vui
Dẫu đời ngàn dặm phủi phui

Cấu trúc Lời là sự mặc cả của chính thân phận nhà thơ với Thi ca. Ngôn từ (lời) khí cụ duy nhất nhà thơ bày tỏ khát vọng, ước mơ hay chính cả việc từ chối chính mình trong dòng sống một khi không bằng lòng về một thái độ. Nhưng rồi cũng chính Lời cho thấy ý nghĩa của Thơ để làm giàu cho giá trị Thi ca.

Lời. Khi như dòng sông trôi
Con nước ngửa mặt cho trời xanh chung
Lời. Khi như gió mông lung
Hụt hơi buộc cái vô cùng chờ nhau
Lời. Khi là vết thương đau
Xin bát cháo lú qua cầu câu thơ

Bài thơ “Bóng Tối Lời” một thí dụ tuyệt diệu khả năng ẩn dụ, so sánh của tác giả khi viết về Lời:

Nhớ một bài thơ nói về bóng tối
Nơi đó ánh sáng của trăng của sao đã tàn lụi
Nên những lời nói về đêm. Như những lời nói dối
Bóng tối ấy
Chỉ như một tấm phông làm nền
Và trong xưng tụng cô đơn
Dường như phản bội tất cả ký ức về ánh sáng
Mầu trắng của ngày
Mầu đen của đêm
Đôi khi ranh giới giữa trắng và đen nhập nhòa
Ánh Sáng và Bóng Tối
Ở lời tôi. Ở lời anh. Ở những lời không ở cùng sự thật

“Phút mong manh giữa những từ” đóng lại bằng khát vọng của ước mơ qua bài Lời Khát. Là Lời của một tương lai quá khứ. Là màu xanh của hy vọng sau những nghiệt ngã của chia lìa, mất mát vì Lời viết về một nơi đến của một giấc mơ:

Tôi đang viết giấc mơ
Trên giấc ngủ nỗi sợ
Trên khốn cùng nước mắt
Trên lạnh tanh thi thể
Trên hẩm hiu dòng máu
Tôi đang viết giấc mơ
Bằng lời tôi khát
Bằng hết sức có thể, một gạch nối ấm áp
Che chở tôi
Nơi tôi có thể sống với phút giây chưa từng tới
Nơi tôi có quyền mơ mộng
Nơi tôi có quyền được quên
Nơi cảm xúc tôi được chọn lựa một bình yên
Tôi đang viết giấc mơ. Người ơi
Trong phút giây tin cậy của một lời cầu nguyện

Và em sẽ viết
Một bài thơ tình đúng nghĩa. Em và Anh
Giấc mơ xanh

Bài “Nụ cười nói với tôi rằng” là sự nuối tiếc một thời thất vọng dù muốn lãng quên nhưng không đạt được, như tâm tưởng cuộc đời vốn chồng chất những điều hạnh phúc và cả không hạnh phúc. Nhưng khi ước mơ chính là nuối tiếc thì đồng thời cũng chính ước mơ là hy vọng:

Có phải cùng lúc với nụ cười
Là âm thanh lãng quên kéo tôi vào hy vọng
Bầy ảo mộng thôi huênh hoang
Yên phận cùng bóng tối

Có phải cùng lúc với nụ cười
Tôi già theo năm tháng
Cây xương rồng quen gai
Và. Khi chữ tôi cười
Tôi trẻ lại những ước mơ
Tập quen cành lá mới


Về sự hư ngụy của một thái độ, nhà thơ Khánh Minh viết “Giữa những màu xanh” thật tuyệt diệu:

           
            Là dòng luôn trôi đi. Xanh
            là xanh mênh mang hạt lệ
            là xanh đêm òa mộng dữ
            viên cuội tròn viên cuội lăn.

            Bóng tối nuốt xanh dòng suối
            mắt cuội mở đuối trời xa
viên cuội lăn viên cuội già
Ảo ảnh giấc mơ rù quến
Mầu xanh. Hư huyễn câu thơ...

Phần 2 “Ký Ức Xanh” mở đầu bằng hai bài thơ in đậm dấu ấn thời gian, như phế tích của một thời không thể nào xóa nhòa. Hai bài thơ “Tỉnh dậy sau cuộc mổ” năm 2014 và “Những ngày nằm bệnh” năm 1998 cách nhau 16 năm cho thấy hai bài thơ là hai vết cắt ký ức, mang đậm tính hoài niệm dù thực tế cho thấy đấy chỉ là những sự việc tiêu cực của cuộc đời. Tuy nhiên tâm thức con người, đặc biệt những người sáng tác nghệ thuật, vết cắt ký ức lại là thứ “quê nhà” không thể xóa nhòa, mỗi lần có dịp gợi nhớ như vực lại một quãng quá khứ đã mất (A la recherche du temps perdu – M. Proust[1]). Bài thơ “Những ngày nằm bệnh” có những câu:

một tiếng kêu
…, cơn bệnh là nhà tù
giấc mơ tôi là đôi cánh
Cánh của chim cánh cụt

“Tỉnh dậy sau cuộc mổ”:

Tôi đi qua con đường mê bằng lời kinh thắp sáng
Tôi nhận ra hơi thở mình lồng lộng
Như gió mở toang hết những chân trời. Mầu xanh rộng
                                                                               như mơ
Ôi hơi thở, người bạn đường nhắc nhớ
Nơi đây. Tôi vừa thức dậy…

“Ký Ức Xanh” gồm những bài thơ “Tìm lại thời gian đã mất”, là những khoảnh khắc hạnh ngộ hạnh phúc sau bao tiêu cực chia lìa là thứ “Bay ra từ giấc mơ”:

Tôi xuống phố
Náo nức tuôn vào mọi ngõ ngách của ngày
Với đường bay của một con chim cánh cụt
Vừa mọc đôi cánh huyền thoại
Sẽ bay qua biển xanh…

Và những khoảnh khắc trung thực của bài thơ “Sau cơn mưa”:

Và tôi có thể bất cứ
Kéo ra một năm. Một tháng. Một ngày. Một phút
Vụt sống lên. Nhún nhảy
Rồi như thể nó sẽ còn đó. Mãi mãi
Canh giữ xanh tươi mùa kỷ niệm
Những bài thơ còn lại tràn ngập cảm xúc hạnh phúc. Dấu vết kỷ niệm một thời như là những nét vẽ hạnh phúc trên nền quá khứ đau buồn được gợi tuôn ra. Gồm những phản ứng của màu sắc tâm tư qua bao thăng trầm cuộc sống hiện tại, đồng thời nhắc lại một quê nhà thơ ấu xa xăm:

Biển mở căng chân trời
Gió đẩy thêm chút nữa
Tất cả những đám mây lúc này đã vỡ
Nguyên vẹn một mầu xanh
Tôi bóng bay. Bơm đầy hương biển và gió

… ngôi nhà Hoa Sứ vừa mở ra những cánh cửa gỗ nâu, có tiếng chào nhau buổi sáng, có tiếng trò chuyện bạn bè, có tiếng bước chân ra vào của người phụ nữ đảm đang. Mùi cà phê, mùi bánh mì nướng. Mùi ẩm sương hiên gạch đỏ. Mùi bình yên. Mùi yêu thương. Cùng những tiếng cười… Gió đang đưa bay xa…

Trong ánh nắng rực rỡ Sunset Beach
Mùi biển Nha Trang. Vỡ òa trên cát lạ…


Nhà thơ Nguyễn thị Khánh Minh nhắc nhiều đến biển như hoài vọng một quê nhà (Nha Trang), các bài thơ Bẫy xanh, Đoản khúc Biển, Tiếng biển đều là tiếng vọng của một thời kỷ niệm:

BY XANH

Con sóng tung lưới
Nước bung ra xao xuyến
Tan vào bẫy quyến dụ xanh
Ấm nồng ngực cát
Vỡ tôi. Buồn trầm blues biển
Hương của nụ hoa nở từ vực sâu


ĐON KHÚC BIN

Đêm. Ngủ xa nhà
Nhưng cũng như biển
Tôi trăn trở suốt đêm…

Tôi thấy mình trôi
Cô đơn như con thuyền
Trên dòng nhạc Đặng Thế Phong
Con thuyền nên thơ. Cứ mãi trôi
Và mang hoài trên mình giấc mơ về bến*

TING BIN
Có những đêm mùa thu
Tiếng gió nghe như tiếng sóng
Dội xôn xao lồng ngực
Biển cồn cào mọc lên
Nha Trang theo dòng máu
Tràn trề thân thể
Làm xanh hết ký ức tôi


Bài thơ “Ký Ức Xanh” có hai khổ thơ: Khổ thơ thứ nhất viết về Ký Ức Xanh, Khổ thứ hai như đóng cánh cửa kỷ niệm trở về thực tại nơi mà cuộc sống vẫn tuôn trào thi vị từ những hồi ức đẫm ướt nồng nàn dư vị tình yêu và hy vọng của Ký ức xanh:

Xanh. Xanh như trời xanh như lá xanh như nước xanh như ánh mắt sao Kim xanh. Em. Hạt biển xanh bung cao. Những con sóng nhìn lên. Ngưỡng mộ.

Sáng. Sáng như ngày sáng như viên đá quý sáng như mắt ngây thơ sáng như ánh lửa đêm. Em. Điểm long lanh vương miện triều dâng. Tan ra lấp lánh.

Sâu. Như vực sâu như rừng sâu như ý nghĩ thẳm sâu. Hơi thở âm vang dội lên từ ngực. Biển rộng mở mùa thiếu nữ. Thủy lưu hết sức ngọt và dịu dàng. Chắt chiu ấu thơ em xuân thì em. Bờ cát và sóng. Sống hết những ranh giới của nước. Yêu nhau.

Nhốt vào trái tim mỏng manh. Những hạt biển mặn. Vỡ mềm môi triền cát. Luân vũ ánh sáng. Em. Điểm hoan lạc nhất của cơn say. Những vòng tròn hối hả đồng tâm.

Phần 3 “Ngôn Ngữ Xanh” bắt đầu bài thơ “Ngày chan hòa” với khổ thơ ba câu (Tercets) miêu tả một thực tại như mơ chan hòa hạnh phúc. Là những vệt màu cảm xúc vẽ trên bề mặt thực tại bức tranh trừu tượng biểu hiện (abstract expressionism) cô đọng những rung cảm giác quan lẫn tinh thần:

Phố lao xao khua mùa lá mới
Một mùi hương rất lạ theo về
Là tiếng nói mắt nhìn nhau có phải

Thầm riêng mình. Ấm ngọt giữa môi thơm
Ấm như thể thu nghìn giọt nắng
Nở như bông phố ngọt trưa nồng

Cúi xuống nhẹ vai ngày run mắt gió                    
Gọi nhau về. Nhà ai vừa khép cửa
Sắc rơm chiều. Rất dịu. Rồi tan
Là thức dậy vô cùng biết thế
Ngó chung quanh ngó đất nhìn trời
Sợ hụt hẫng nên ôm vào rất vội

Là tôi là tôi là tôi
Như viên đá lạnh trong ly nước
Sống tận cùng. Chắc thế. Đã tan ra…


Bằng khổ thơ ba câu nhà thơ Nguyễn thị Khánh Minh sáng tác bài “Nơi dịu dàng xuân tới” với nhịp ngắt quãng như hơi thở thông qua tâm tư nuối tiếc, đợi chờ:

        
Của nhẹ lắm tiếng trái tim đang đập
Và hạt lệ không rơi ra khỏi mắt
Sợ buồn trĩu rồi ngày đi sẽ nặng

Đừng nói gì thêm đêm ơi tiễn biệt
Em đứng đó con đường dài không hết
Đêm thở bên vai. Ai đó nói thầm

Có phải rất thầm rời hai bàn tay
Xa như tiếng mưa buồn cuối phố
Mắt nuối nhìn trong đêm. Mưa bay

Có phải rất thầm hẹn em mùa xuân
Dịu dàng ơi, nụ hôn đêm chờ đợi
Giục cánh hoa nở kịp dịu dàng khuya…


Bài thơ “Vườn chiều” mô tả cô đọng tiếng thời gian. Nỗi cảm hoài sâu lắng trong hồn và cả thiên nhiên. Độ rung cảm bài thơ rất cao, và tính trữ tình rất sâu. Ngày và đêm chuyển đổi dịu dàng qua ẩn dụ rất mực tuyệt diệu:

Dưới bóng im. Ngày đi xa lắm
Nghe buồn chiều xóa nốt dấu chân
Như ai đó bước ngoài vạn dặm

Để lại trên cành những xanh nhắn nhủ
Xanh trên trời mây ở với chia tan
Mà rơi xuống trần gian. Đoàn tụ

Để lại trên thềm cành hoa khuya ngất trắng
Mai rồi nghe viên gạch nhỏ cũng thơm
Mỏng và dịu một hồn đêm hóa nắng…

Thơ khổ ba câu (Tercets) có thể ví von như thơ Haiku phương tây, tuy nhiên Tercets không giới hạn chữ cho mỗi câu và phải có một hợp vần (rhyme). Chỉ trong ba câu thường mô tả một cảm xúc trọn vẹn rất khó vì sức cô đọng đòi hỏi cao. Trong phần 3 Ngôn Ngữ Xanh có đến hai phần ba (21 bài) thơ khổ ba câu Tercets. Bài “Im lặng biển. người về” điển hình cho kiểu thơ Tercets:

Tin gió đưa về với mênh mông
Biển rất xanh và chân trời hư ảo
Sao ai trả lời kia sóng như bông*

Nở một đóa xôn xao chín suối
Tóc như mây trăm ngả sông về
Biển hò hẹn chắt lòng bông hoa muối

Bài thơ “Ngôn ngữ xanh Đinh Cường” cho thấy màu xanh của tranh là nỗi ám ảnh tâm hồn nhà thơ. Màu xanh của những bức tranh Đinh Cường cho bao xúc cảm, vun đắp cảm hứng để có bài thơ mô tả những bức tranh bằng thứ Ngôn Ngữ Xanh. Có thể màu xanh mà nhà thơ mô tả là thứ màu ký ức, chìm sâu trong những giấc mơ của một người lưu đày tâm trạng. Tranh chỉ là điều kiện để dường như hiện thực những giấc mơ:

Dường như
Đó là đường biên vô tận của mầu xanh
Người họa sĩ thao thức cõi bình lặng
Những mảng mầu nức nở

Chiều ấy rất nhiều gió
Đàn chim nhớ phố bay về
Trên tháp chuông trên hàng cây già
Chiều Sài Gòn những hạt mưa xanh
Rơi vào mắt cô gái hai mươi. Sững lệ
Tôi yêu mầu xanh từ ngây thơ ấy
Từ tranh người mầu sắc cũng chiêm bao

Tôi tin rằng những bức tranh của Đinh Cường đã được nhà thơ Nguyễn thị Khánh Minh bằng vào thứ Ngôn Ngữ Xanh tô vẽ và chắp thêm đôi cánh bay vào bầu trời cao tìm về một quê hương đã mất:

Cuốn vào giấc ngủ bầy chim
Giữa kiêu hãnh nụ hoa đỏ và nét cong run rẩy dưới tà áo
Những mảnh trăng xà cừ
Phản chiếu từ ánh mắt cô gái. Thẳm xanh và im lặng
Mải miết. Đường xanh rất buồn
Nơi dòng sông Potomac
Ánh mắt người từng ngày rơi xuống. Hạt lệ Đà Lạt
Khúc hoài hương vỗ sóng
Những cánh chim ngược gió. Thổ giọng tuyết khô
Người hát bằng sắc mầu thao thiết quê hương một thời
                                                                           khói lửa
Người hát bằng đường cọ mềm đong đưa tán lá
Trong giấc mơ của loài chim. Phố xanh yên bình
                                                                          mộng mị

Và bài thơ chấm dứt bằng:

Đó là ngôn ngữ xanh. Và. Tín ngưỡng xanh
Trả lại cho tôi thời gian
Lúc người ta còn tin vào những chuyện thần tiên,
           những lời thơ nói về vẻ đẹp vĩnh cửu. Của trái tim

Trong bài thơ “Đêm” là một tự vấn qua lăng kính cảm hoài thân phận bởi điều kiện hạn chế của bản thân:

Phương đông im như ai vừa sập cửa
Ngày oằn vai cõng tối. Nắng theo đi
Để lại một trời đêm chết đứng

Sao tắt hồn rơi không lưới đựng
Từng bầy gió nhỏ khóc đưa tang
Vành môi khô trăng buồn neo lưng ốm

Nhưng cũng cho thấy nỗ lực bản thân vượt qua để có chút mầm xanh hy vọng:

Trời xa đuối. Lòng đêm sâu thẳm miết
Cây mỏi mệt bứt ra hoài lá bệnh
Thở dài gió lạnh trổ mình gai

Gai đêm nhọn giấc mơ đi không trót
Mắc cạn lòng nhau giấc ngủ đìu hiu
Họa chăng mai. Có một niềm vui sót…


“Sinh Nhật” là bài thơ an ủi chính mình trong khi nhận diện thời gian trôi qua của kiếp đời. Bài thơ biểu hiện tâm tư đấu tranh với nhịp thời gian bằng chính sự thụ động của thực tại nhưng vẫn phải cố gắng, tin vào một giấc mơ màu xanh:

Một ngọn nến. Thổi 60 năm xa
So ánh lửa. Chút mùa thêm tí tách
Tôi đi qua đi qua...

Một ngọn nắng. Là mùa xuân đi mãi
Mầu hoa vàng ngất mắt chiêm bao
Tôi ngủ mớ những khi lòng thơ dại

Một tiếng chim gù. Là hè không đi nữa
Cho miên man hơi ấm tổ đong đầy
Tôi ủ no cõi đời tôi bếp lửa

Một chiếc lá khô. Hỏi mùa thu bóng xế
Ngày vừa trôi dỗ níu bóng chiều phai
Tôi mở hết những chiều xanh có thể

Gió đã buốt. Thổi bùng đêm mùa đông
Có tiếng khóc rót mừng ly rượu đỏ
Mừng trong tay ngày tháng vẫn đầy. Đong

Bài “Xứ chiêm bao” một lần nữa nhà thơ viết kiểu mơ và thực thông qua một cảm xúc đời thường. Bài thơ nêu bật ước mơ từ một thực tại mà nhịp sống không thay đổi, xảy ra hằng ngày. Có thể bảo một thực tại chỉ có thể vượt thoát qua ước mơ:

Dường như tôi đã đứng ở đó
Nơi ánh sáng đã lọc hết cặn đêm
Cùng hệ lụy ác mộng
Những thầm lặng nhẹ nhàng trỗi dậy
Trong suốt. Nhẹ bẫng. Run rẩy
Bóng tối không còn phải giấu kín nỗi đau
Theo bình minh tung nắng
Theo hàng cây bung gió
Mở hết xích xiềng của thời gian
Ngày đêm đếm sự trôi qua
Trong khí hậu chiêm bao của tiếng chim hót sáng
Của hoa nở và tàn
Dường như tôi đã đứng ở đó
Và nhặt được một đóa hoa hồng
Rưng rức nhịp trái tim thơ diễm lệ
Dường như tôi đã được sinh ra ở đó
Nơi. Những vị vua họp bàn vì hạnh phúc lê dân
Những người lính gác mùa màng
Những người già và nhà thơ ngồi kể chuyện thần tiên
Canh giữ những giấc mơ
Trong bờ đêm bay rất nhiều đom đóm

Để rồi từ vượt thoát thực tại đến một quê nhà có trong giấc chiêm bao:

Trong sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, huyền nhiệm sao khuya, rắc xuống cánh đồng thơ mùa chiêm bao diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát của một bông cỏ dại…

Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…

Nhà thơ Nguyễn thị Khánh Minh đã dùng thơ mô tả nhịp sống chính mình. Giống như một họa sĩ nhà thơ vẽ bức tranh tâm tư theo ngày tháng mình đã sống. Có đủ đau buồn, yêu thương, mất mát theo sự chuyển động môi trường chung quanh cô và ngay trong tâm hồn cô. Bài thơ “Nhịp ngày” mô tả thứ cảm xúc “ngày” của nhịp sống:
Vẽ những lối quanh con nắng ngập ngừng
Đi rất khẽ rồi dần dần lay động
Thềm hoa khuya và ngõ nhỏ đầu hôm

Ai đứng đó hay vừa mới tới
Một chút nhìn như hồ nghi đêm
Đêm lưỡng lự. Ngày không đứng đợi...

Và những xung động tâm tư “chiều” xuống mơ hồ:

Chiều đang tắt dần ngọn lửa
Ngày không cầm được chân nắng nữa
Sông buông dòng nước để trôi xa

Ngọn cỏ xanh bên bờ mới mọc
Đêm buồn như có ai đang khóc
Tôi ngồi cong mảnh trăng non

Để rồi tự an ủi mình “Vâng, tôi đã rất đầy”:

Ơn đời nhau. Hạnh Phúc
Vâng, tôi đã rất đầy
Lẻ loi một hạt lệ
Dỗ dành nhau. Phút giây

Cạn ly này. Niềm Vui
Đã mềm môi vị ngọt
Gai đời kia có xót
Âu chút trần gian thôi

Bài thơ “Một mình. Như mơ” là hoài vọng một thời đã mất, ở đó có những nỗi cô đơn lang thang, có những hạt lệ rơi xuống hồ của tình cảm vô vọng. Gợi lại để giải tỏa chính nỗi cô đơn của mình như thứ an ủi hẩm hiu:

Nhẹ tiếng bóng. Xô tôi
Tiếng lá thở dài tiếng gió
Đêm va vào tối
Những nỗi cô đơn
Chạm nhau. Không lời
Ném xuống
Những hạt lệ
Sóng nụ cười lay động
Tưởng lòng ta xưa
Soi tỏ lại cùng trăng. Niềm yêu dấu cũ…

Ném xuống
Những hạt buồn vỡ tan
Mặt hồ giấc mơ
Lan tỏa những vòng tròn đồng tâm
Thao thức một điểm
Gọi tên người, Ban Mai tinh sương…


Ô dường như đêm nay
Đâu nói chuyện một mình…

Bài thơ “Tâm Trạng Ngày” với ba bài thơ “Ngẫu hứng ban mai”, “Cảm xúc trưa”,“Nhịp một mùi hương thức giấc” điển hình về một nhịp sống hàng ngày đã phản ánh trong nhiều bài thơ khác của cô.

Xuống phố
Nhìn mọi người trên đường
Nhìn. Nhưng chẳng thấy ai
Giữa ánh nắng buổi sáng
Vẫn không gần thêm được một ban mai
Tựa như thế
Trôi hoài trong mơ vẫn thèm một chiêm bao
Rất mãnh liệt một cơn gió
Dội xuống tiếng chuông từ ngực nóng
Nắng tỏa tung
Thời gian ngập ngừng trước cửa
Tôi quỳ xuống một ý nghĩ duy nhất
Đặt trên bờ môi vị ngọt của phút giây tình yêu nôn nả
Thách thức sự níu kéo của kỷ niệm lẫn vẫy gọi của ngày mai
Hào phóng mùa hy vọng

Có thể bảo Ngôn Ngữ Xanh chỉ là cách nói, ẩn dụ của nhà thơ Nguyễn thị Khánh Minh trong khi cả tập thơ là một cuộc đời nếu không muốn nói chính tâm tư đời sống thường nhật của nhà thơ, và tính phương pháp giúp bố cục tập thơ mạch lạc ngăn nắp. Phần 1 “Phút Mong Manh Giữa Những Từ” là thứ phương pháp luận Thi Ca, trong đó trên nền của cảm xúc, sự sáng tạo từng bước đi qua độ rung cảm của các con chữ, ngôn từ để hình thành bài thơ. Rất mong manh, vì nhà thơ đang ngồi trong ngôi nhà quá khứ, gom nhặt những sợi tơ dĩ vãng để rồi bằng ước mơ, khát khao hy vọng khéo léo dệt tấm tranh thơ màu xanh tương lai.  

Tập thơ Ngôn Ngữ Xanh là lời tâm sự của nhà thơ về cuộc sống chính mình. Những bài thơ độc thoại còn ẩn giấu sự bất lực thực tại là lý do khao khát ước mơ trong suốt các bài thơ của cô, để rồi màu xanh của ngôn ngữ chính là nỗi niềm hy vọng cho ước mơ chắp cánh. Thế nên nhà thơ Nguyễn thị Khánh Minh mỗi lần viết là mỗi lần hướng tới tương lai bằng một niềm tin hy vọng. Ngoài mặt mỹ học của ngôn từ Thi ca, tập thơ Ngôn Ngữ Xanh còn là cảm hứng cho những ai muốn vượt qua sự trì trệ đời sống xuất phát từ hạn chế khách quan hoàn cảnh bản thân. Tôi trân trọng giới thiệu tập thơ Ngôn Ngữ Xanh của nữ thi sĩ Nguyễn thị Khánh Minh đến với các bạn yêu thơ!

LÊ LẠC GIAO
Tháng 10/2019

[1] Marcel Proust viết trường thiên tiểu thuyết nổi tiếng A La Recherche du Temps Perdu (Tìm lại thời gian đã mất) bắt đầu hồi ức một thời qua việc chấm mẩu bánh madeleine vào trong tách nước trà lúc bị bệnh.








No comments:

Post a Comment