Tố Nghi
fabrizio-cassetta
Pablo
Nureda người Chí lợi, vừa gia vừa sĩ tùm lum - tư tưởng, chánh trị, triết học,
văn thơ... danh sách dài thoòng đọc mệt
xỉu, chưa kể có dạo còn hành thêm nghề ngoại giao, đại sứ lãnh sự chi đó - Nhưng làm thơ mới là nghề ruột, là cái
thang cuốn đưa thẳng ông vào thi đàn.
Chữ
tài liền với chữ tai một vần...
Tai
thứ nhứt của Pablo là ưng mần thơ vì phụ nữ, cho phụ nữ. Ông khen chúng tới độ
hổng còn chỗ cho đứa khác nhảy vào, tá lả khen từ trên xuống dưới, từ trước ra
sau. Đờn bà con gái đọc thơ ông sướng mê tơi
Đám đực rựa đọc thơ ông thường nhảy nhỏm la làng. Đứa dùi đục chấm xì dầu
thất kinh, kêu ầm chuyện dục tình nhầy nhụa (3-4 X là ít). Đứa cởi mở phóng
khoáng cũng kêu ầm, rằng ông thi sĩ kiêm triết nhơn biết chiêm ngắm và thưởng
thức cái đẹp thương đế tạo ra rồi ban cho nhơn loại. Đại khái tùy góc đứng ngó
vào mà độ cảm nhận độc giả đã khác nhau.
Sự
việc Nureda bợ giải Nobel văn chương 1972 phải được hiểu như là... thơ ông có tầm
vóc thứ thiệt thứ dữ, là thơ phải được đọc và hiểu trong ý tưởng văn chương nghệ
thuật, chớ hổng chơn cẳng nông cạn tầm thường theo kiểu đạo đức giả của đám khí
tồn tại não ! Nói nào ngay, cái tai này giúp Pablo đắt đào, ông thi sĩ bị đờn
bà con gái túm lấy giựt lông tóc, xé áo quần giữ làm kỷ niệm, chen lấn xô đẩy ồn
ào thiếu điều cản trở lưu thông công cộng đường phố luôn !
Tai
thứ nhì của Pablo là khuynh hướng xã hội maxism thiên tả, làm ông một thời gian
phải xa xứ lưu vong. Pablo chết năm 1973 vì bịnh tật, nhưng có tiếng đồn rằng
ông bị chánh quyền Pinochet thanh toán vì chánh kiến. Vài ba năm trước đây,
nghe nói toà án đã cho quật mộ để giảo nghiệm tử thi theo lời yêu cầu của gia
đình thi sĩ, nhưng rồi kết quả cũng chẳng tới đâu.
Trong
thời gian lưu vong, có dạo Pablo Neruda sang sống tại đảo Capri đất ý.
Phim
Il Postino lấy bối cảnh giai đoạn này, nhưng khung cảnh không ở Capri mà một
hòn đảo hoang vắng, dân tình thưa thớt, nghèo và ít học, phần lớn sanh sống bằng
nghề chài lưới.
Phim
khởi đầu với hai cha con nhà Mario. Cả Đẫn sống với ông bố góa mỗi bữa mỗi làu
bàu chuyện phải kiếm việc làm. Ở rẻo đất ngư phủ nọ mà cơ thể kị ẩm ướt, hắt
hơi sổ mũi, khật khờ say sóng thì khỏi có vụ ra khơi, nên dzồi Đẫn kinh niên thất
nghiệp, và dĩ nhiên là... ế vợ ! Rồi ở không cũng buồn, Đẫn xách xe máy đạp
lòng vòng cà rông lối xóm.
Thi
sĩ Neruda dọn tới làng, mang theo nàng thơ Maltide - số thứ tự của nàng trong
cuộc đời thi sĩ hổng nghe khai báo ra - ẩn
cư trong một ngôi nhà hẻo lánh tuốt trên sườn đồi hướng ra bờ biển vắng. Đây là
biến cố có tầm vóc trọng đại, đáng để toàn dân làng hãnh diện lây. Rồi hệ thống
bưu điện làng, xưa nay vốn im lìm ế ẩm, thinh không bận rộn khởi sắc. Trạm bưu
điện trước giờ chỉ có mỗi trạm trưởng đứng tại chỗ phát thư, chừ phải mướn thêm
người đạp xe giao thư trên triền núi. Thư từ tới tấp về làng từ khắp cùng thế
giới. nhiều tới độ mỗi bữa mỗi phát mới kịp ! Lương bưu tá tài tử thiệt hổng
bao nhiêu, chỉ đủ uống cà phê và coi chớp bóng, nhưng sẽ có “lì xì”. Đẫn vui vẻ
ký giao kèo (... miệng) rồi nghe ngài trạm trưởng, thiên tả từ máu thiên ra, ân
cần dặn dò lên lớp, rằng... qua sao cũng đặng, nhưng từ đây em phải nhớ hô qua
bằng sir theo đúng phẩm trật cho có trên có dưới heng em !
Và
phim bắt đầu với màn Cả Đẫn mỗi bữa mỗi gò lưng đạp xe lên đồi giao thư cho thi
sĩ (đang chờ giải Nobel văn chương). Hoàn cảnh sống của thi sĩ và bưu tá hoàn
toàn khác biệt, một trời một vực lắc lơ
xa, nhưng rồi hạnh duyên dun rủi và tình bạn đâm chồi. Cuộc đời Cã Đẫn thinh
không quẹo cua rất gắt, được thi sĩ nắm tay dẫn vào vườn hoa văn học, được gà
thơ cho tán gái, và teng teng teng tèng...giữa phim có màn Đẫn theo em Beatrice
dzìa dinh - cái quán nhậu nhỏ của cô nàng, một bà sồn sồn dốc lòng trông cậy
chúa -
Nếu
coi phim chỉ để theo dõi diễn tiến một chuyện tình - tình có hậu của Cả Đẫn
Mario và kiều nữ vừa đẹp vừa sexy Beatrice - thì Il Postino có lẽ chỉ vậy vậy. Nhưng cái triết lý của Il Postino đậm
nét khôi hài đen, dở khóc dở cười, của đám dân quê chất phác khi phải đối đầu với
những vấn đề oái ăm xã hội. Trạm trưởng giảng cho Đẫn về quyền làm chủ tập thể
"nhơn dân phải ý thức quyền lợi của mình mà vùng dậy, tháo gông cùm áp bức
dành lấy tự do... bla bla bla...". Chuyện lấp biển vá trời này dĩ nhiên Đẫn
ấm ớ nên thắc mắc : Xếp cho em hỏi thiệt, chỗ khác hổng biết chớ chỗ mình nè,
sau khi nhơn dân giành được quyền làm chủ rồi thì sao nữa, cái chi sẽ xảy ra.
Dĩ nhiên ở hóc bà tó, chó ăn đá gà ăn muối nớ thì... tập thể chẳng có chi để phải
giành dực ráo nạo, nên rồi trạm trưởng đực ra vì ngoài tầm hiểu biết ! Đối thoại
trong phim làm khán giả bật cười, nhưng cười xong thấy cổ họng khô chát !
Rồi
thi sĩ về xứ, để Đẫn mình ên với nàng thơ Beatrice. Đẫn biên thư báo cáo tường
trình " Khi bác đi cháu tưởng như tất cả sẽ đi theo bác, nhưng ngẫm nghĩ rồi,
cháu biết bác còn để lợi một điều..." Và một điều ấy chính là nàng thơ nghệ
thuật. Đẫn báo cho thi sĩ biết mình sẽ về thủ đô tham dự ngày biểu dương lực lượng
của đảng cộng sản, "cháu sẽ đọc một bài thơ, và bác sẽ nghe nó trong truyền
thông báo chí" Nhưng... bài thơ chưa kịp đọc lên thì tác giả của nó đã
sang thế giới bên kia.
Phim
kết thúc với một nốt nhạc trầm, thi sĩ trở về chốn cũ... bới trong tro tàn
tìm ánh sao xưa... rồi ngơ ngẩn ngậm ngùi, Nàng Thơ vẫn còn đó mà sao đã tắt
ánh mịt mờ !
*
Nói
tới nhạc viết cho phim ý người ta nghĩ tắp lự tới Enrico Moricone. Ông nổi tiếng
vì nhạc hay đã đành, nhưng còn vì dòng nhạc của ông đều và vững, hổng trồi sụt
theo thuở theo mùa (như đám ngồi xổm, tính khí bất thường vì chu kỳ kinh nguyệt)
Một
nhà soạn nhạc ý có thể bạn hổng biết, chưa biềt vì hổng để ý : Nhạc sĩ Luis Baclov.
Ông người ý nhưng gốc gác Á căn đình, nơi phát xuất điệu tango nóng bỏng ướt
át.
Luis
Bacalov viết nhạc cho phim Il Postino. Bản nhạc đề của Bacalov đã giành về cho
Il Postino một oscar âm nhạc. Nhạc phim sau đó còn được Bacalov thay đổi thêm bớt
rồi ra dĩa, và dĩa này cũng đoạt giải âm nhạc luôn.
Bản
nhạc dậy đình dậy đám với nhạc cụ Bandoneon, nôm na là tiểu phong cầm hay đờn
ôm, hay piano kéo - để phân biệt với piano gõ tức dương cầm -
Bandoneon
từa tựa như accordeon (phong cầm) nhưng vóc dáng nhỏ hơn và cách chơi có khác.
Tuy chào đời tại Đức - bandoneon là gọi theo tên người khai sanh ra nó :
Heinrich Band - nhưng trưởng thành tại Argentina, là nhạc cụ thích hạp cho dòng
nhạc tango trữ tình (theo như ý kiến chung từ nét).
Hồi
đó giờ tui yên trí hai cái ÈON nớ (bandonéon và accordéon) là anh em ruột thịt,
nay té dza tuy chúng cùng họ, họ sáo woodwind, nhưng là anh em rất xa.
Về
kỹ thuật, cả hai tương tợ như nhau. Thùng đờn của chúng là một hộp kín với
thành hộp xếp lớp như nan quạt. Chơi đờn là kéo ra kéo vào cái thùng đờn nớ cho
nó co dãn, không khí bên trong bị ép lợi thành gió, rồi thổi lùa qua các phiến
kim loại thiếc bên trong để chúng rung lên và phát tiếng. Tiếng động phát ra có
thanh âm trầm bổng tùy độ rung, tức tần số âm thanh.
Kéo
hai cái Éon nớ, hai tay phải cần nhiều thể lực, hổng chỉ dẻo dai khéo léo của
ngón tay (kêu bằng chạy ngón) để bấm nút tức phím đờn, mà còn cần cả sức mạnh của
cẳng tay và bắp tay đậng mần màn "nổi gió"
Vậy
chúng khác ra sao ?
Thưa
khác ở 3 điểm chánh sau đây:
1.
-Chơi
accordeon có thể ngồi hay đứng. Cây đờn được đeo thẳng trên vai. Thùng đờn
accordeon ngắn, sức lao động hổng cần nhiều.
-Dây
đeo bandoneon ngắn, móc vào và kềm bằng tay. Thùng đờn lại dài quá khổ. Vì hổng
đeo được trên vai nên bandoneon bắt buộc phải kê trên đùi trong tư thế ngồi,
còn không thì đứng gác một chơn lên băng ghế rồi đật đờn lên. Kéo bandoneon do
đó tốn nhiều sức hơn.
2.
-Tiếng
accordeon là tiếng rung của 5 phiến kim loại. Mội phiến có tần số giao động xê
xích nhau chút nẹo. Vì khác vậy nên tiếng accordeon là tiếng
"vibrato", nên rồi tiếng accordeon dzéo dzắt. lắm khi lả lơi tới...
nhầy nhụa.
-Trong
bandoneon, chỉ có hai phiến thiếc rung để tạo âm, âm này chứa hai nốt cách nhau
đúng một octave - nghĩa là cùng tên nốt theo kiểu... mình với ta tuy hai nhưng
chỉ là một - Tiếng bandoneon không phải
vibrato, âm sắc của nó trong trẻo, tròn trịa, mượt mà.
3.
Cà
accordeon lẫn bandoneon, tay phải chơi leading music tức tune nhạc, tay trái giữ
phần đệm tức chơi hợp âm accompagnimant. Nhưng...
-Ở
accordeon, các hợp âm đã được tính sắn và xếp chung vào một nút đờn, chỉ cần bấm
nút này là nguyên hợp âm trổi lên. Đệm của accordeon là đệm giới hạn trong
khuôn khổ. Trên bàn phím trái các nốt hợp âm được xếp thành ba nhóm và chỉ 3
nhóm mà thôi. Thí dụ hợp âm sol sẽ có sol major, sol minor và sol 7, nên rồi có
muốn cũng không cách chi phăng te di đặng.
-Trong
bandoneon, các nốt bấm riêng cho cả hai tay, vì thế bandoneon được ví như piano
cầm tay có tổng cộng 72 nốt riêng biệt, trải dài trên 5 octaves - 35 nốt thấp
bên trái và 37 nốt cao bên phải (72 phím ấy thực ra là 144 nốt lận, vì như đã
nói mỗi phím có hai nốt cách nhau 1 octave)
Nhưng
nhạc đệm viết cho piano có thể tinh tế tới phức tạp, mà ở bandoneon thì trái lại,
rời rạc thô thiển. Nên rồi hầu như đã không thấy bandoneon trình tấu solo bao
giờ. Cái khó nữa là... piano chỉ xài hai keys nhạc (khóa sol và khóa fa), còn
bandoneon xài tới 4 keys lận. Đọc nhạc viết cho bandoneon hẳn hộc bơ. một cuộc
chiến đấu mịt mờ tốn hao năng lượng rất mực.
Có
lẽ vậy nên số lượng nhạc sĩ chơi bandoneon mới quá là khiêm tốn... Mãi cho tới
khi nó được Astor Piazzola thổi vào luồng sanh khí mới bằng các tác phẩm viết
riêng cho nhạc cụ này, làm bùng dậy dòng nhạc tango argentina hay tango nuevo,
biến thể và cách tân từ dòng tango cổ điển. Bandoneon hẳn phải là niềm tự hào của
dân nhạc Argentina.
Nói
gần nói xa, tui hổng mặn mà chi lắm với đám Eon, nghe accordeon hay bandoneon một
bản còn OK, sang tới bản thứ hai y phép nhảy nhỏm !
Sau
đây là hai clip nhạc của Il Postino, một với toàn giàn nhạc và một với
bandoneon solo.
Mới
bạn đọc thong thả thưởng thức.
Một
chi tiết đậc biệt khác về phim Il Postino :
Ánh
sao của Massimo Troisy vụt sáng trên vòm trời nghệ thuật. Trong Il Postino,
Troisi hổng phải chỉ là tài tử chánh (vai Mario) nhưng còn là thi sĩ (viết lời
cho nhạc của Bacalov) đạo diễn và viết truyện phim. Troisi chết rất trẻ, mới 41
xuân xanh, vì heart attack, vỏn vẹn chỉ 12 tiếng sau khi phim hoàn tất, ông được
đề cử oscar diễn xuất... posthumous.
TN
No comments:
Post a Comment