Khuất
Đẩu
Bãi Dốc Lết. Ninh Hòa
Tôi
không đủ đức tính ngang tàng và bạo mồm bạo miệng như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, để
có
thể
tặng vợ bốn câu thơ trời ơi đất hỡi như thế này:
Ta vốn ghét đàn bà
như ghét cứt
Nhưng vì sao ta lại
yêu em?
Ôi mắt em nhìn như là
bẫy chuột
Ta quàng xiên nên đã
sa chân.
Tôi
cũng sa chân nơi quê ngoại của các con tôi, nhưng không phải vì mắt em nhìn như
là bẫy
chuột,
mà vì nơi đây có những hàng cau rất giống với quê nhà và vì lỡ kẹt không chịu
trình diện
quân
dịch nên không thể rút chân đi đâu được.
Ở
quê tôi không hiểu cái nước uống nó thế nào mà khi nói ai cũng ngửa cổ lên như
khướu hót,
cứ
“dẩy na? dẩy na?”. Còn ở đây thì cổ như mắc nghẹn giống nhái kêu, các từ chứa
âm a đều
biến
thành e, rằng đừng có nói léo, hãy
đưa teo tờ béo!
Tuy
nhiên ngẫu nhĩ trùng phùng cũng có được cái may, miền đất này rất thái hòa nên
được gọi là Ninh Hòa, Khánh Hòa. Nhà thơ Quách Tấn còn gọi một cách rất thơm
tho là xứ trầm hương.
Đúng
là rừng núi ở xứ này từng có một thời lừng danh vì có rất nhiều trầm kỳ.
Có
một loại cây tên cây dó chỉ mọc ở rừng sâu, khi bị gió bão làm cho
cành cội tơi bời, liền tiết ra một chất nhựa quý có vị cay cay đăng đắng, chữa
bệnh hay một cách thần kỳ, nhất là đau bụng gió, nên được gọi là kỳ nam. Ngoài
kỳ, còn có trầm, tuy không chữa được bệnh, nhưng đốt rất thơm. Cụ Nguyễn Du viết
“đốt lò hương ấy so tơ phím này”, là đốt trầm.
Xưa,
các cụ thường xông trầm khi đọc sách, thưởng trăng. Trung thu còn có thêm hương
hoa cúc và hương mạch nha, lễ mễ công phu như trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Những
người đi tìm hương liệu cực kỳ quý hiếm ấy trong rừng sâu gọi là đi điệu. Điệu là phải mang tất cả đồ
đoàng trên lưng như các bà mẹ Ra đê địu con, chứ không phải ăn chơi sành điệu.
Họ là những người nghèo thường đi từng nhóm từ 3 đến 5 người, lặn lội trong rừng
sâu núi cao cả tháng mới về.
Không
phải người nào cũng trúng, tức là được ông bà thương cho gặp cây dó có kỳ.
Thường là chỉ mót được chút ít của những người gặp may để sót lại. Có người đi
cả đời vẫn chưa một lần gặp được. Rồi thương tật, rồi bệnh chống nước từ núi rừng
mang về, kiếm được bao nhiêu trầm đều phải đổ ra mua thuốc, nghèo lại hoàn
nghèo. “Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt” là vì vậy
Xưa
nhiều người đi lạc, đồn rằng để sống sót trong rừng phải ăn thịt sống, nên hóa
thành …cọp!
Tiếng
đồn “cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” biết đâu là từ những câu chuyện huyền hoặc
như thế.
Có
thể nói, đi tìm trầm không khác gì đi tìm cái chết, vì phải đối mặt với biết
bao gian khổ, chết chóc. Ngoài việc tin vào “ông bà”, tin vào ở hiền gặp lành,
còn phải tin vào bùa ngải, nên mới có thành ngữ ngậm ngải tìm trầm.
Nhưng
đó là chuyện trước đây, giờ ít ai chịu khổ làm nghề đi điệu nữa. Một phần vì
bao nhiêu cây dó, có kỳ hay không cũng bị chặt phá, đào cả gốc rễ, nên đi cả
năm cũng chưa chắc “trúng”.
Và
phần lớn vì các tay đầu nậu vừa ăn trên đầu trên cổ họ, vừa ăn gian nói dối với
người mua, đem chút ít kỳ thiệt đun ra nước rồi ngâm với gốc cây duối giả làm kỳ,
hay nhét đinh nhét chì vào cho nặng cân. Các tay buôn kỳ từ Hồng Kông, Ả rập vì
thế đều no no chạy dài.
Khánh
Hòa chẳng những có rừng sâu mà còn có núi cao. Trên đỉnh nam Trường Sơn thường
lẫn trong mây mờ, có hai tảng đá khổng lồ, nhìn xa trông giống như hai mẹ con
đang đứng nhìn ra biển nên được gọi là đá Vọng Phu. Nhạc sĩ Lê Thương trong một
lần đi ngang qua Khánh Hòa, trông thấy bà, đã đem xúc cảm từ Chinh phụ
ngâm mà sáng tác nên trường ca Hòn Vọng
Phu bất hủ.
Trong
số các con tôi có một đứa bảo với mẹ rằng, mỗi lần về quê nhìn thấy núi Vọng
Phu con đều muốn khóc. Tiếc rằng cu cậu không có chút năng khiếu nào về âm nhạc
và thơ thì bảo rằng làm cho lắm cũng chỉ nổi tiếng được vài câu mà thôi.
Nơi
đây còn nổi tiếng với tháp Bà linh hiển ở Nha Trang. Tháp nằm bên bờ sông Cái,
ngó xuống cầu xóm Bóng và nhìn ra biển Đông sóng vỗ. Xưa, dân Chiêm rất giỏi
nghề đi biển, sau khi vượt trùng khơi trở về, từ xa nhìn thấy ngọn tháp, là biết
đã về đến quê hương.
Cũng
giống như ở Bình Định, tháp là của người Hời. Khi chúa Nguyễn vượt qua ranh giới
tại núi Đá Bia do Lê Thánh Tôn áp đặt, để dần dần chiếm trọn đất nước Chiêm,
thì tháp Bà biến thành tháp của người Việt, thờ mẫu đọc theo giọng Việt là
Thiên Y A Na.
Khi
tôn tạo, để ra vẻ Hời, người ta xây thêm một cổng chào khum khum bằng gạch mộc,
chẳng ra Hồi mà cũng chẳng phải Phật, trông rất nhếch nhác dị hợm.
Tượng
của Po Anagar bằng trầm hương bị Pháp lấy mất đầu được thay bằng xi măng sơn phết
lòe loẹt, mặc áo đội mũ như đồng bóng ngồi giữa khói hương mù mịt cho khách thập
phương, phần lớn là vợ các quan to đương chức, xì xụp bái lạy xin giữ được ghế
càng lâu càng tốt. Bên ngoài, một đám gái nõn nường phấn son diêm dúa giả Chiêm
nữ uốn éo múa may, trong tiếng trống mẹ trống con lum tum lắc cắc và phèn
la não bạt tùng xèng…
Bảo
rằng đấy là văn hóa truyền thống ngàn xưa, thì truyền thống ba rọi này đâu phải
của người Chiêm!
Những
dân Hời sống sót sau cuộc bại trận ở Đồ Bàn, chạy dạt vào miền đất sau núi Đá
Bia ở Phú Yên, một lần nữa lại bị các đời chúa Nguyễn và nhất là vua Minh Mạng
tận diệt, ai nộp được nhiều đầu lâu là được thăng cấp, nên có từ thủ cấp nghe rất
rùng rợn. Giờ, chỉ còn co cụm một dúm tại các vùng đất đai khô cằn ở Phan Rang,
sống còm cõi với những con dê và cừu ốm đói, không tìm ra cỏ phải ăn cả gai bàn
chải. Thử hỏi có ai trong số họ đủ tiền và đủ quyền để được bước vào ngôi tháp
của tổ tiên?
Càng
nghĩ tôi càng thấy, những kẻ cầm quyền hiện giờ còn ác hơn cả vua chúa ngày
xưa. Họ trâng tráo đến nỗi coi việc cướp đất như chuyện đã rồi, không cướp
không được, và giả dối gọi dân tộc Hời là dân tộc anh em, như cách nhà họ Tập gọi
Việt Nam là nước anh em. Thà gọi đích danh là dân tộc ít người còn dễ nghe hơn.
Vậy
nên, nào có mong chi một lời xin lỗi!
Nhiều
người bảo, đất Khánh Hòa như một nước Việt Nam thu nhỏ. Rất giàu và đẹp. Có rừng
nhiều gỗ quý, có biển nhiều cá tôm, có ruộng lúa mênh mang, mà người dân lại hiền
hòa. Dưới con mắt các nhà quân sự, còn có cảng Cam Ranh vừa sâu, vừa kín gió,
mà Nga Mỹ và cả Trung Nhật đều thòm thèm. Về kinh tế, vịnh Văn Phong là nơi rất
béo bở để xây dựng khu chế xuất, cho thuê đất lấy vàng.
Nếu
không có cuộc xuống đường gần như cả nước ngày mồng 10 tháng sáu năm ngoái, thì
mấy trăm vị dân biểu đã bấm nút ô kê rồi và nhiều tay cò đất đã trở thành đại tỷ
phú!
Bãi
biển Nha Trang và Dốc Lết, cát trắng và mịn, đi bên nhau dưới bóng dừa thật nên
thơ. Giờ thì từng đoàn xe to kềnh và dài ngoằng từ Trung Quốc chạy sang, đổ xuống
bãi biển hàng ngàn kẻ giàu mà chưa sang, có 6000 năm văn hiến nhưng thiếu văn
hóa, quần cộc bụng mỡ nị nị ngộ ngộ ồn ào như cả một bầy chim cánh cụt.
Ai
cũng kêu trời, chỉ có một nữ văn nhân xa xứ đến hơn 50 năm, về nước khen Việt
Nam mình rất khôn ngoan biết cách moi tiền từ túi anh nhà giàu. Rằng, các em từ
đây không phải xuống ruộng bị đỉa cắn, rằng ngày làm hai job trong nhà hàng máy
lạnh mát mẻ, rằng Hoàng Sa, Trường Sa, giờ thêm bãi Tư Chính có bị lấy mất cũng
được thôi, vì miếng ngon nằm phơi ra như thế ai mà chẳng thèm.
Còn
có kẻ, chắc như đinh đóng cột là dư luận viên, thì tin những gì nị nói chứ
không tin những gì nị làm, bảo rằng chỗ nào có Quảng là của ngộ lớ. Đã có Quảng
Đông, Quảng Tây, thì Quảng Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi không của nị
thì là của ai. Cũng như Vũng Tàu thì đứt đuôi con nòng nọc là của Tàu rồi!
Khom
lưng quỳ gối hít đàn anh như thế, thì thôi rồi, con cháu tôi chắc sẽ
thành dân Hời. Và khi đó, đúng là anh em vì cả hai cùng bị mất nước!
KHUẤT
ĐẨU