Khuất
Đẩu
Tranh Thân Trọng Minh
Cuối
năm, ngồi đọc lại những đoạn viết rời
của Lữ Kiều, bỗng bàng hoàng nhớ lại một thời khói lửa nhiễu nhương suốt 30 năm.
Thời mà anh gọi là lịch sử chọn chúng tôi, chứ chúng tôi không chọn. Hay nói
như Nguyễn Gia Thiều, “cái quay búng sẵn trên trời/ mờ mờ nhân ảnh như người đi
đêm”. Còn hơn thế nữa, không phải đi mà bị lôi xềnh xệch trong đêm tối đen. Đó
là số phận của những người nhỡ sinh ra trong khoảng 40, 50 thế kỷ trước.
Cho
nên, cái tựa đề “Chàng nho sinh dưới gốc tùng” cũng chỉ là một cảnh viễn mơ ngậm
ngùi mà thôi!
Sự
thực thì: “ngày-hai-mươi-tuổi, có-những
đêm-chong-đèn-ngồi”. Không phải
“chong đèn ngồi nhớ lại”, mà ngồi
nhớ
tới.
Nhớ
nỗi khắc khoải của Trang tử: ta hóa thành bướm hay bướm hóa ra ta? Nhớ một
tiếng “được” thều thào của Nguyễn Du trước khi nhắm mắt, như dấu chấm hết cho
nỗi đoạn trường. Và nhớ những lúc nghe Beethoven với khúc giao hưởng số 9, ở đó
anh đếm được đến những 24 lần cái nét
nhạc bừng bừng thất thanh hạt lệ nóng trong cái hành âm cuối-cái choeur
ấy-như một âm thanh ma trơi, càng nghe
càng rùng mình.
Anh
cũng nhớ tới G.Nasser, người đã quyết liệt quốc hữu hóa kênh đào Suez trước sức
ép nghẹt thở của Anh, Mỹ để phục sinh một Ai Cập huy hoàng của 6000 năm trước; nhớ
tới Che Guevara, nhà cách mạng latinh cực kỳ lãng mạn, đã chết một cái chết đẹp
như bài thơ.
Anh
còn nhớ tới Hà Thúc Nhơn, một bác sĩ
chống tham nhũng giống như chàng Don Kihôtê tự tin một cách ngây thơ, để rồi cuối
cùng gục chết thảm thương ở quân y viện Nha Trang.
Và
dù đau đớn đến xé lòng, anh vẫn không thể không nhớ tới những người điên nói cười
ngô nghê trước cảnh chợ Đông Ba bị đốt cháy hôm mùng hai tết Mậu Thân và cầu
Tràng Tiền bị Bắc quân giựt sập để chứng tỏ cho thế giới thấy được sự hiện hữu
nghiệt ngã và tàn nhẫn của họ.
Anh
cũng không quên những người tù không chịu trở về Bắc ở trại tù Phú Quốc, không
phải ở lại để hồi chánh mà để khỏi bị loại khỏi cái bầy đàn gọi là “sinh Bắc tử
Nam”.
Cũng
không thể không nhớ tới hai cha con một anh địa phương quân hồn nhiên đi bắt
cúm núm, cha tóc đen mũi tẹt còn con tóc vàng sợi nhỏ, để rồi cảm phục cái cách anh ta biến nỗi đau của
mình thành niềm vui sống.
Và,
đương nhiên rất nhớ tới Huế.
Anh
gọi Huế là người tình cũ, một người tình có mái tóc dài đà đuột ngát hương, là
Hương giang, cài chiếc lược ngà lóng lánh, là cầu Tràng Tiền. Người tình cũ ấy cực
kỳ kiêu sa, đài các nhưng cũng cực kỳ yếu
đuối. Nàng đã hai lần bị tổn thương, hai lần bị làm nhục*. Nàng đáng yêu muôn
phần, nhưng thật không dễ để cùng nàng đi trọn đường tình.
Anh,
cũng như những trai Huế khác, Trịnh Công Sơn, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư … đều tự
nhận mình là người tình phụ. Tôi phụ em
một thời bé dại chứ không phải em phụ tôi.
Ngày
chàng 20 tuổi, những đêm chong đèn ngồi nhớ, để mà chi?
Thưa
để viết!
Hóa
ra đây là những ghi chép, những suy tư, những chiêm nghiệm, những thao thức của
một người muốn viết như một lần dấn
thân.
Nhưng
viết như thế nào?
“Viết như Kinh Kha cầm cây chủy thủ, “Viết
như Kinh Kha buồn!”
Kinh Kha buồn.
Không phải vì sông Dịch lạnh.
Không phải vì đất Tần lang sói.
Chàng buồn.
Vì phải lên đường cùng với Tần Vũ Dương to xác nhưng hèn yếu. Buồn
vì thái tử Đan quá nôn nóng không đợi được Cao Tiệm Ly. Nghĩa là buồn vì cảm
thấy việc lớn sẽ không thành. Buồn nhưng không sợ, dù biết rằng “ nhất khứ hề bất phục phản “. Ba ngàn tân
khách tiễn đưa tóc dựng ngược khi nghe chàng cất tiếng hát. Trong cổ kim chưa
có một cuộc lên đường nào bi tráng như thế.
Tần Thuỷ Hoàng chưa biết sợ ai ngoài chàng.
Chàng đã bị băm vằm, nhưng hơn 2000 năm qua chàng vẫn sống. Và
chàng vẫn tiếp tục sống đến nhiều ngàn năm sau nữa. Chàng sống không phải vì đã
vung con dao chuỷ thủ trước mặt Tần Thuỷ Hoàng. Chàng sống vì đã dám chứng tỏ
sự bất khuất. Chàng sống bằng chính cái chết của chàng.
“Viết như
Kinh Kha buồn”
“Viết như Kinh Kha cầm chuỷ thủ”
Nghĩa là, biết chẳng đi tới đâu, biết là thất bại mà vẫn cứ viết.
Phải viết. Vì đó là sứ mệnh của những nhà văn ở các nước nhược tiểu, những nước
không chỉ có một Tần Thủy Hoàng ngất ngưởng trên ngai vàng đẫm máu, mà còn có
rất nhiều bạo chúa ở khắp nơi, nhất là trong lĩnh vực văn chương và nghệ thuật.
Biết là thất bại nên
“viết còn là một thú tội”
Vì,
đã là nhà văn thì “không có sự thật nào là cấm kỵ”
Rồi
chàng vẽ ra “một nền kiến trúc mới, tinh thần khí thế như tiền nhân những ngày
xưa hào hùng…Phải giết con sâu bò trên giấy trắng. Sống hùng dũng và viết như
chém đá”…Làm sao đừng ngụy tín. Bỡi vì tự hạ giá mình, chúng ta hạ giá văn
chương”
Không
ngụy tín, không tự hạ giá mình nên ngay từ tuổi 20, anh đã xác tín mình không
thể nào và không bao giờ là nhà văn cọng sản.
Anh
viết:”Người cọng sản không tin ở giá trị tự thân cô đơn của nhà văn…Y là đám
đông. Y bị lãnh đạo một cách tự nguyện”
Viết
như thế quả thực rất khó. Vậy nên, cho dù những gì anh đã sống, đã hạnh phúc,
đã khổ đau, đủ để làm nên một cây chủy thủ, nhưng anh vẫn ngại ngùng chưa viết,
dù rằng trong anh vẫn luôn giục giã:
“Kinh
Kha thôi đừng bịn rịn, hãy lên đường!”
Thực
ra, chẳng phải anh không đủ tự tin để cầm lấy bút như Kinh Kha cầm cây chủy
thủ. Anh dùng dắng, đắn đo chỉ vì tự trọng. Cái cốt cách rạng rỡ nhất của một
nhà văn chính là lòng tự trọng. Viết hay không viết, còn hơn Hamlet tự hỏi “to
be or not to be”.
Bỡi
vì, viết cho ai? Cho những em bé sơ sinh khi anh đang ở tuổi 20, hay viết cho thế
hệ vừa bị cướp mất và vừa tự đánh mất cái “bản lai diện mục” của chính mình.
Viết
làm sao, nếu không phải là khúc sinh ca của đồng lúa trỗ thì cũng đừng là bão
giông, là hí luận để làm ngu dại cả một dân tộc. Theo anh, “nhà văn đích thực, là
nhà văn bị đầy đọa, nhà văn của địa ngục”…Đó là nhà văn bị đóng đinh. Nhà văn
bị trừng phạt: viết!
Vì
vậy, những đoạn viết rời được bạn bè góp nhặt để in thành sách cách đây 10 năm chỉ
được anh khiêm tốn gọi là:Thử Bút. Như thử test trước khi tiêm thuốc. Đó là
tính cẩn trọng của một người vừa yêu vẻ đẹp ngất ngây của văn chương mà cũng
vừa thấp thỏm ngại ngần trước uy lực phù thủy của ngôn ngữ.
Thử
bút, nhưng có nhiều đoạn rất đẹp, gần như hoàn chỉnh. Như viết về Mẹ trong Sen.
Viết về Huế trong Người tình cũ. Và, rất cá tính, rất đời trong Quán trên đồi.
Ngày
đầu năm, lên chơi điền trang Thân Trọng, ngôi nhà gỗ cũ kỹ đối với anh, quý
nhất vẫn là những bức phác thảo, những bức tranh của Đinh Cường, Lưu Công Nhân,
Dương Cẩm Chương. Chỉ vào một bức tranh do chính anh vẽ, anh bảo: “Một bức
tranh ai hiểu thế nào cũng được., Nhưng nếu cần giải thích thì cũng có thể. Như
bức này. Những mảng màu trắng đục là những trang báo. Con cá thì mắt không bao
giờ nhắm. Cây đèn dầu tuy bé nhỏ nhưng vẫn tỏa ra ánh sáng. Tức là, người viết
phải luôn tỉnh thức và viết dưới ánh sáng của lương tri”.
Vậy
đó! Viết hay vẽ, đối với anh tuy là một hình phạt, một định mệnh, thì vẫn là
một dấn thân hết sức nghiêm cẩn. Bởi thế, cho dù con đường anh đi chưa trọn,
chỉ một tập truyện ngắn, 7 vở kịch, một tập thơ, đúng là thử viết, thử bước chứ
chưa thực sự đi vào đất Tần bất trắc.
Nhưng
chẳng phải vì thế mà tôi bớt kính trọng anh. Bởi vì, tuy có ít nhiều hồ đồ, tôi
đã thực sự xúc động khi nhìn thấy mình trong Thử Bút những năm anh 20, 30. Ở
tuổi đó, tôi cũng có những đêm thao thức: viết cái gì, viết cho ai, viết hay
không viết?
Cứ
tưởng tuổi tam thập là vừa đủ vốn sống để có thể phóng lên giấy trắng những con
chữ chứ không phải những con sâu, thì, hỡi ơi, cả đất trời bỗng dưng sụp đổ.
Tháng
4, 1975 Lữ Kiều bẻ bút!
Đành
nghe trong im lặng khúc giao hưởng số 9 ai điếu cho chính mình.
Ở
đâu đó, anh viết, tình yêu như là sự chết. Và chết chỉ một lần. Nhưng rồi anh
lại bảo, tình yêu cũng có thể phục sinh. Và anh đã làm sống lại chàng Kinh Kha
bằng cách cầm cọ vẽ. Những nhát vẽ từ năm 1982 đến nay như chém vào đá. Và
những con cá không bao giờ nhắm mắt, dù đã chết. Những con cá vẫn tỉnh thức.
Nhà
văn bị bức tử giờ thành họa sĩ. Thì cũng như Trang tử mơ thấy mình hóa bướm. Tuy
hai mà một. Có sao đâu!
10/1/2017
KHUẤT
ĐẩU
* Kinh thành Huế thất
thủ lần thứ nhất 23/5/ Ất Dậu (1885) (Pháp chiếm)
* Lần thứ hai, tết
Mậu Thân (1968). (CS chiếm)
No comments:
Post a Comment