Phí
Ngọc Hùng
Phố Phái
Tác phẩm Trần Dần
Trần Dần, dịch giả Đoàn Cẩm Tú, nhà văn Thuận
Xưa...nghe thật
xa vắng với tác giả Tang thương ngẫu lục Phạm Đình Hổ (1826) qua Vũ trung tùy
bút, trong đêm mưa giữa kinh kỳ gió táp mưa sa, tác giả phóng bút: "Nhà ta
ở phường Hà Khẩu...". Hà Khẩu đây là phố Hàng Buồm, nhích thêm dăm bước
nữa là tới chùa cầu Đông có tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều qua bức họa đầy kỳ
tích. Đã bao nhiêu mùa gió thổi, cho đến một đêm mưa, mặc kệ cho gió mưa choàng
lên phố thị, Phạm Đình Hổ để chữ nghĩa trào ra ngọn bút lông tùy hứng dẫn đi,
nét ngang, nét sổ, nét móc thấp thoáng hồn người bên phố đông người qua. Hồn
người đã đem những viên gạch lá nem lát lên nền phố cổ. Lá vàng rơi trên giấy:
Phố đã đi vào văn học...
Thế nhưng
không xa mấy, đúng một trăm năm sau...Như với túc duyên để hai người gặp nhau ở
ngã tư xưa. Chuyện là có một người thơ (1926) đã bước lên những viên đá xanh
trải trên một con phố Hà Nội. Bằng vào câu thơ mở đầu "Nhà ta ở phố Sinh
Từ..." và tiếp đến là Những cột đèn và Những ngã tư có phố mờ chờ tha
thiết tự ngày xưa cùng những dấu chân đầy tang thương ngẫu lục...Người đời coi
thơ ông là lập dị. Nhưng trên phố phường mà chỉ riêng cái ba toong của cụ
Nguyễn Tuân chống trên vỉa hè Hà Nội đã được coi như một biểu tượng. Thì thơ
ông vượt qua mọi khoảng cách. Thơ ông tĩnh mịch, nhưng ngập gió lộng như tranh
Phố Phái:
Gió ơi đừng vội tủi
Khuya rồi! Hãy tới
khóc ở hom sông
Có lẽ thu rồi em
nhỉ
Em chớ khóc nhiều
vàng ố ngã tư xưa
Cùng những cột đèn
chơ vơ:
Có lẽ xa kia là phố
tôi sinh
Có sương sớm đọng
trên đèn muộn
"Người
góp nhặt bên phố đông người qua" trong tạp bút này lượm lặt được một vài
con chữ trong cái lò luyện chữ của ông. Những chữ ngập ngụa, cách ông ứng xử
với ca dao chẳng hạn là cách của một người biết yêu sao cho cả phía được yêu
lẫn phía mình đều lớn bổng lên, không phải cách yêu ai thì người đó nhỏ lại như
ông đã từng. Con chữ nào qua tay ông là mang cuộc đời mới với những bồng bột
tha thiết:
Ở đâu? Ở đâu có
ngọn đèn xanh
Rèm che nhòe cửa
sổ...?
Nín đi thôi. Nín đi
thôi các đại lộ nhiều cây
Đừng sa sút lá
Để ta khuyên gió...
gió đừng rung cây...
Những dòng khinh bạc quay quắt:
Tôi ơi! Tôi ơi!...
Tôi vẫn rong chơi
bên mấy cột đèn mù...
Tôi càng đứng bơ vơ
đầu cống tỉnh...
Cũng căn nhà ấy,
con phố ấy ông đã ngã bệnh nhiều năm trước khi qua đời, có lẽ cùng những linh
cảm đó nhưng không còn đủ thời gian để nhìn thấy những hình dạng mới của chữ
nghĩa. Chữ nghĩa bấy giờ có vẻ như chưa cần đầy đọa đã tự ngắc ngoải tự hủy,
chưa sinh ra đã kề huyệt. Thì chôn ai? Nhưng ấy là chuyện sau. Bây giờ, ông lại
trở về với gió và những ngõ ngách:
Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp
Ồ...ồ ...Đêm đi như một cỗ quan tài
Từ phố Sinh
Từ nhích thêm mươi bước là chùa cầu Đông để có bức tranh Giáng Kiều gặp Tú
Uyên. Và người sau biết thêm rằng trước khi là người thơ, ông là họa sĩ. Vẽ
trước tiên là cảm hứng, là cách giải tỏa bản thân và thể hiện cái tôi qua nét
vẽ. Vẽ như một cứu cánh, một hình thức giao lưu mới khi người viết cảm thấy cô
đơn, bất lực trước những trang giấy. Như ông đã thổ lộ: "Tôi có cống hiến
gì đâu. Tôi làm chưa bằng người làm vườn, người trồng rau". Như ông dí dỏm
"Tôi còn sáng tác thêm vài chữ nữa để miêu tả chân tướng mình, như tự vẽ
chân dung, để cho nó hết lòng một thể...". Con đường giấy, bút cũng như
cọ, mầu của ông đã có mặt, ẩn khuất qua những mốc thời gian. Và được những
người đi sau dàn trải trong một cõi đi về như thế này đây:
1946,
Nguyễn Tuân với Chùa Đàn, cùng lúc ông lập nhóm tượng trưng Dạ Đài với Đinh
Hùng, Vũ Hoàng Chương và thơ của ông bị chê là khó hiểu.
1948,
Picasso có mặt trong Đại hội văn hóa tại Breslau.
1950, ông
bắt đầu vẽ tranh theo trường phái lập thể và phác họa. Ông giải bày:
"Trong phác họa cần cả hình dung lẫn hình thức Không tạo được hình thức sẽ
làm hỏng nội dung. Hình thức càng tốt, càng giảm số chữ phải ghi trong tranh.
Phác họa cần nhất là dễ nhìn, dễ phân biệt, tập trung làm bật ý chính, tạo cho
người thưởng ngoạn chú ý ngay về sự khập khễnh của hình thức rối mới dẫn giải
đến cái "phi lý", cái lố bịch của nội dung".
Ông vẽ tranh,
làm thơ, viết truyện đều có những dấu ấn riêng. Rồi người tình phố thị của
riêng ông được phác họa lên giấy croquis với những...cái lố bịch của nội dung.
Vẽ cũng như thơ, ông không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của
vô nghĩa. Những chữ rất hàn lâm uyên bác mà rất cực nôm. Cái sướng nôm hiện đại
của "một bát sẹo, một lẹo vú, một bú đít, một lít nách" qua những nét
vẽ hoàn toàn không truyền thống, khác hẳn với những họa sĩ bạn ông như Văn Cao,
Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái.
1954, ông tham
gia chiến địch Điện Biên Phủ với Đỗ Nhuận, Tô Ngọc Vân. Cái chết của họa sĩ Tô
Ngọc Vân tác động mạnh mẽ đến ông. Ông viết một hơi tiểu thuyết Người người lớp
lớp.
***
Chuyện là một
bữa tìm đến một nhà báo Văn Long, người cùng trạc tuổi với người góp nhặt bên
phố đông người qua. Gần ông lắm, chỉ cần đi bộ vài trăm mét tới một con
phố...:
"...Khi tôi mới lớn, tôi nghe đâu đó từ 1961, ông
kiếm sống bằng nghề tô màu ảnh và cũng dùng chất liệu này để tiếp tục vẽ tranh.
Sau khi ông qua đời, Mai Gallery (Hà Nội) đã tưởng niệm nhà thơ bằng một triển
lãm thân hữu, giới thiệu một khía cạnh còn ít được biết đến: 40 tranh khổ nhỏ chọn
lọc của ông, một hình thức biểu đạt khác của thơ, tiếp cận lập thể, siêu thực
và trừu tượng làm giới xem tranh thật sự ngạc nhiên, khi biết những tranh ông
vẽ vào những năm 60 là thời điểm mà những thông tin nghệ thuật thế giới đến
Việt Nam còn rất hạn chế...Thế nên tôi có ý nghĩ người viết, làm thơ bỗng một
hôm chuyển sang vẽ, còn người đang vẽ bỗng một lúc nào đấy lại làm thơ, viết
văn. Dường như không lằn ranh giữa chữ nghĩa và hội họa. Xem những sáng tác của
ông thấy vẫn con người ấy, chỉ có cách thể hiện là khác đi. Đó là những nỗi
buồn, những khát vọng, một giấc mơ hay một ký ức nào đó. Ký ức như một cái
bóng. Cái bóng chỉ thoáng hiện thôi nhưng đa dạng và sắc nét...
Đầu giai đoạn
đổi mới văn học, tôi được chuyển sang làm biên tập thơ cho "Hội nhà
văn". Công việc cử tôi đi lấy bài của các tác giả lâu năm bị "treo
bút" trong nhóm "Giai phẩm" như Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt, Sỹ
Ngọc, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Tô Vũ. Một công đôi việc tôi có những
khúc mắc với chuyện những người bị tù tội với những con số định mệnh định sẵn
như Nguyễn Hữu Đang 17 năm tù, sau 7 năm thì được tha. Trần Thiếu Bảo giám đốc
nhà xuất bản Minh Đức 17 năm. Phùng Cung 7 năm. Lạ nữa là Vũ Duy Lân, một người
chẳng dính dáng đến nhóm "Giai phẩm", chỉ vì bị nghi là đưa Nguyễn
Hữu Đang cái áo len khi đang đi tù. Thì cũng bị...7 năm tù . Rồi đến nhóm
"Nhân văn Giai phẩm" bị đánh, trừ 5 người không "đánh" vì
nghĩ cũng là anh em mình cả gồm có: Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài,
Nguyên Hồng, Kim Lân.
Hà Nội lúc ấy
thật nhỏ! Gặp ông tôi chỉ cần đi bộ vài trăm mét tới một con phố hẹp Nguyễn
Khuyến còn được gọi là ngõ Sinh Từ có chùa Bà Ngô. Ông ngồi trong một góc nhà
thiếu ánh sáng, chỉ vài mét là đường phố, mà ngỡ như ông đã tạo một thế giới
riêng cho ông, thế giới của trầm tư, trầm cảm...Ấn tượng đầu tiên với tôi là có
cái gì hài hòa giữa tâm trạng, tính khí ông, thơ ông với góc nhà cuối phố ấy!
Ông ngồi đó hầu như bất động từ bao năm với gương mặt râu ria, không cởi mở,
thậm chí không nhếch một nét cười khi biết mục đích tôi đến tìm ông. Sau tôi
mới biết, ở bên trong sự trơ lì đó là những dòng nham thạch sục sôi của sáng
tạo. Như chuyến đi Huế với Phùng Quán mà tôi đã ghi lại: "Đến khách sạn để
gặp ông, ông vẫn ngồi một mình trên giường, tôi hỏi sao ông không đi chơi đâu
đó với anh Quán. Ông nói: "Phùng Quán ngồi không yên, chỉ thích đi. Mình
ngồi 30 năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ
"bụi", sổ "ngao du". Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ
này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mới nghĩ ra. Có khi ngoài cả ý thức. Đó
là cách đi của mình".
Có lẽ từ dáng
ngồi này, mà xuất hiện huyền thoại: Khi ông mất đi, trên bức tường góc nhà như
vẫn còn bóng ông ngồi đó! Để Trịnh Thanh Sơn có được câu thơ xuất thần
"Bao năm tháng thân chìm vào bóng – Thân về trời bóng vẫn ngồi im".
Thơ ông cực
đoan là cá tính sáng tạo. Nhiều bài diễn đạt hơi rối, khúc mắc và khó hiểu. Đó
là theo cách nhìn hồi ấy của tôi: Thơ cần có ý tưởng và cách diễn đạt có thể đa
nghĩa mà vẫn trong sáng. Ông đương nhiên là khó hiểu. Nhưng ông nói về sự khó
hiểu một cách giản dị: "Tất cả mọi cái đẹp đều khó hiểu. Vì cái đèm đẹp
giết chết cái đẹp". Một câu sáng rõ như vậy quả là tối tăm mù mờ với những
ai chưa bào giờ nghĩ ngợi về cái...đèm đẹp. Còn "hơi rối" thì với
ông: "Làm thơ là làm con chữ. Con chữ nó đẻ ra nghĩa, sẽ được nhiều nghĩa.
Cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử
là chưa phải là thơ, nghịc lý như Lão Tử chưa phải là thơ. Nhẩy qua bóng mình
mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ vì khó mà nhẩy qua bóng mình. Nếu làm thơ mà làm
nghĩa, rồi mới mượn chữ để diễn đạt nghĩa thì nghĩa sẽ hẹp. Cái chưa biết mới
là cái thăm thẳm, cái chưa biết mới là cái mới. Nguyễn Du vừa làm chữ vừa làm
nghĩa. Như câu "Trăm năm trong cõi người ta - Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét" nhau là làm nghĩa. Còn câu "Mai sau dù có bao giờ..." là
làm chữ hư tự mà đa nghĩa, đa cảm!...
Là người hoài
cổ, mỗi lần đi qua phố Hàng Bạc mà cả mấy trăm năm trước có căn nhà tường đỏ
hát ả đào ở một ngã tư nào đó nên được gọi là nhà đỏ. Từ căn nhà đỏ này đã đi
vào truyện Kiều qua lầu xanh của Nguyễn Du khi đến Thăng Long. Là tôi lại lay
lắt đến câu thơ của ông "Có lẽ thu rồi em nhỉ - Em chớ khóc nhiều vàng ố
ngã tư xưa" .
***
Trong tù ông
dùng dao cạo tự tử để họa sĩ Nguyễn Sáng có bức Chân dung của ông có vết sẹo
trên cổ in trên Nhân văn số 1. Nào có khác gì Van Gogh cãi nhau với Paul
Gauguin. Trong cơn điên Van Gogh dùng con dao sắc...không cứa cổ. Mà cắt đứt
một vành tai. Chỉ hai tuần sau Van Gogh có họa phẩm Chân dung tự họa với ống
điếu và tai bị băng bó (Self-Portrait with Pipe and Bandaged Ear).
Chẳng phải đợi
hai tuần, lấy cái mốc thời gian năm 1956. Mãi đến một phần tư thế kỷ sau, một
người cùng tuổi với người góp nhặt bên phố đông người qua có bút hiệu Nam Dao
từ ngoài nước về Hà Nội năm 1981. Bằng vào đường nét trường phái đa đa hay siêu
thực hậu hiện đại diễn tả hai con mắt mê dại trên khuôn mặt tượng đá của ông.
Bức tranh "chữ" này cũng khó hiểu như bức La Joconde mà Léonard de
Vinci vẽ bà Giocondo mỉm cười cũng đầy...khó hiểu khi mang thai như dưới
đây:
"...Tôi gặp anh khoảng 81. Buổi trưa hôm ấy, nắng
hanh và trời lên cao đến không còn đó. Khò khè ho khan, anh mở mắt ra rồi lại
nhắm lại. Lúc ấy anh mới mở mắt nhìn tôi tròng trọc. Cặp mắt anh sáng, sáng lạ
lùng. Và long lanh rừng rực đam mê, ánh đỏ lè, như mắt cọp. Từ đấy, nghĩ đến
anh, tôi cứ liên tưởng đến một con cọp. Anh mỉm cười, cái cười méo mó vui buồn,
lại nhắm mắt lại. Con cọp nhắm mắt nhưng không ngủ, chòm râu bạc thỉnh thoảng
lại nhếch lên như từ phản xạ. Khuôn mặt anh tạc đá, thứ nham thạch lạnh mặt
trên, bốc lửa phía dưới. Gò má u lên nhô thành một khối hoạn nạn, liệu dưới sâu
còn một hỏa sơn nào âm ỉ chực phun ra chất bỏng cuộc đời? Một con cọp ngủ ngày,
thình lình thức dậy, quắc mắt. Câu thơ của anh bỗng ùa về. "Tôi đi giữa
trời mưa đất Bắc - Đất hôm nay tầm tã mưa phùn - Bỗng nhói ngang lưng máu nhỏ
xuống bùn - Lưng tôi có tên nào chém trộm?" . A, cái lưỡi dao cùn. Không
đứt được mà đau!
Lưỡi dao cùn để
vết thương những máu nhiễu giọt rơi tí tách đánh nhịp theo thời gian. Anh thở
ra: "Tí tách như cái đồng hồ". Tôi nghe, im lặng. Những buổi đến với
anh, thật khác khi có "rượu", anh chỉ nhấp. Không ham vui, ăn ít nói
ít, mắt trừng trừng, anh thỉnh thoảng câu đực câu cái, đôi khi đúng một chữ.
Tôi kể, đêm qua tôi chiêm bao. Nhìn đồng hồ, chiếc kim dạ quang quay ngược
chiều đẩy mọi sự về phía đằng sau. Hoảng hốt, tôi chồm dậy, nhìn lên tường.
Chiếc đồng hồ treo cũng vậy. Nó câm, không cứ tích ta tích tắc, nhưng kim quay
ngược, mỗi lúc mỗi nhanh. Tôi tung cửa lao ra đường. Hà Nội giữa trưa không một
bóng người. Ven theo hồ, tôi cắm cổ chạy về phía Bưu Điện. Nhìn lên cái đồng hồ
ngất ngưởng, hai cái kim đồng hồ... Cứ thế này, tôi thầm nhủ, chắc trở lại thời
nhà Tiền Lê trong một khắc. Đúng thế thật, mặt đất chao nghiêng, tiếng người ơi
ới thứ thổ ngữ tôi không thật hiểu. Thêm dăm phút, tôi chắc mẩm, chắc là đến
thời Hồng Bàng mất. Nhưng hai chiếc kim bỗng tuột ra, bay lên, mỗi lúc một cao,
tít tắp cuối trời. Mặt đồng hồ trơ ra. Mấy giờ rồi? Tích tắc, tích tắc. Nó vẫn
sống. Nhưng chiều quay đẩy thời gian về đằng sau hay kéo ta lên phía trước? Tôi
réo lên hỏi. Tiếng tôi kêu lạc lõng. Mặt hồ Hoàn Kiếm lăn tăn bọt. Tôi chắc là
Rùa thần sắp lên. Tôi đợi. Thình lình một bọn người áo vàng ập đến túm lấy
lưng, hò nhau, nó đây, bắt được nó rồi. Tôi vùng vẫy. Tại sao? Tôi làm gì mà
bắt. Tôi sợ. Tôi hét cho đến khi tỉnh dậy.
Anh nghe, nhếch
mép, được, viết nó ra. Tôi không đáp. Kim quay ngược, lúc này là đến kỷ Hồng
Bàng rồi. Anh thì thào, thời "vỡ kỷ", mảnh văng tứ phía. Anh nhắm
mắt. Cọp ngủ ngày, chiêm bao cái chiêm bao của cọp. Tôi khẽ khàng đứng lên. Anh
mở mắt. Thì ra cọp giả ngủ, đang rình. Rình một tứ thơ chăng?
Về Sài Gòn hè
năm 88, chúng tôi gặp lại nhau giữa một buổi trưa nắng gắt. Anh đợi, ngồi rià
một cái quán bên đường. Vẫn cái tư thế cọp ngồi chống mắt nhìn đời, chập chùng
xe qua xe lại nhả khói khét mùi xăng nhớt. Gặp anh buồn, im lặng. Con cọp ngày
khật khừ, nhướng lên, ánh mắt không rừng rực như cọp nhớ rừng. Với thời gian,
anh thành cọp nhà. Cọp nheo mắt chóa nắng lừng lững chống gậy đứng lên đi dọc
theo hè đường phố. Lần ấy là lần đầu anh vào miền Nam. A, cái lưỡi dao cùn. Nó
chẳng phải chỉ cứa cổ người . Nó chém ngang lưng đất nước. Không đứt được thật,
miền Nam vẫn đó. Nhưng mà đau, nỗi đau còn đó, nay vết sẹo mới tấy da non.
Hai bữa sau, tôi
lại lên đường. Nhưng sao chưa đi mà đã nhớ! Lại tự nhủ, lần cuối, nhưng miệng
cứ hẹn sẽ gặp lại, còn gặp lại, dẫu trời mang mang, đất mang mang, vì đại dương
bây giờ, lời Nguyễn Tuân, chỉ còn là cái ao ếch một đêm mưa. Tôi ghé lên căn
gác nơi anh nghỉ trưa nhà một nhà báo hưu non. Anh nằm, mắt nhắm nghiền. Nhìn
anh, tôi thì thào với ông nhà báo: "Thôi để anh ấy ngủ!". Dẫu tôi
biết anh chỉ nhắm mắt. Anh thừa biết tôi đến chào anh. Nhưng cả anh lẫn tôi,
chúng ta nào có ai biết đấy là lần cuối. Tám năm sau, tôi gặp Trịnh Cung. Câu
đầu Cung nói là "Anh mới mất, mình vừa nhận được tin!". Dẫu có ai làm
thế nào cứu vãn được cái mất mát chính, là anh. Vâng, mất mát đó vô cùng lớn
cho tất cả những kẻ lòng còn gắn bó với chữ nghĩa...
Cách đây bốn
năm, tôi lại về Hà Nội. Tôi đến thắp hương cho anh, Văn Cao. Như những năm xưa,
tôi đến thắp hương cho Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Pháii. Tôi có cảm giác họ vẫn đâu
đây, lẩn quẩn trong tâm tư những kẻ nòi tình gắn bó vào chữ, vào nghĩa, và vào
cả cái định mệnh khốn khổ. Đâu đó, tôi nghe tiếng Nguyễn Tuân rủ rỉ, nước mắt
tràn trề trên những sợi râu bạc, kêu khẽ: "Sợ! Tôi tồn tại được là vì tôi
biết sợ!". Và tôi mơ thấy anh ngồi bên hè phố. Cạnh anh, một rổ đá, cục
nào cục nấy to bằng nắm tay. Ai đi qua, anh cũng chìa cho một cục, miệng bảo
"Không từng sợ, không từng hèn thì cứ ném đá cho tôi chết thêm một
lần!". Mà làm gì có kẻ chết được hai lần!
***
Người góp
nhặt bên phố đông người qua một ngày trở về Hà Nội, đi qua phố Hàng Buồm, Hàng
Bạc thêng thang một cõi Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng...cây bàng lá
đỏ...nằm kề bên nhau...phố xưa nhà cổ...mái ngói thâm nâu... Thảng như có tạt
qua con phố Sinh Từ có chùa Bà Ngô cũng không biết có một chuyện tình thời Nhân
văn Giai phẩm đã trở thành huyền thoại. Ngay cả nếu như rảo bước ghé phố Vũ
Lợi, góc ngõ Phan Huy Chú cũng chẳng hay có một căn nhà, nơi đấy có một người
vừa đi vào cõi tĩnh mịch. Với người góp nhặt bên phố đông người qua thì đến họ
tên người nằm xuống cũng mờ nhân ảo.
Phải đợi
mươi năm sau khi đọc Nam Dao ở trên, thêm nhà thơ trẻ Nguyễn Quang Lập viết về
thơ ông trong một ngày sô bụi mới biết ông là nhà thơ của những con chữ.
Hồi bé chẳng biết gì về người thơ, chỉ nghe
anh Thắng con của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhắc đi nhắc lại câu thơ phản động:
Chúng tôi đi không thấy phố thấy nhà/ chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Nghĩ mãi
không hiểu vì sao lại phản động. Hỏi anh Thắng, anh nói ngu, mày không thấy câu
mưa sa trên màu cờ đỏ là phản động à? Vẫn không hiểu, không thấy. Ai bảo treo
cờ giữa trời, có nắng chiếu thì có mưa sa chứ, không lẽ khi nào nắng chiếu thì
cách mạng, còn mưa sa thì phản động a? Giả sử mưa sa xuống cờ là phản động thì
mưa phản động chứ bác ấy phản động à? Anh Thắng nói mày ngu lắm em ơi, nói
trong nhà thì được, ra ngoài đường nói người ta bắt đấy.
Không ngờ ba
chục năm sau lại gặp bác, gặp nhiều lần, lần nào cũng anh Phùng Quán đưa đến.
Thấy bác ngồi dựa tường, mắt nhìn như thôi miên tường bên kia. Mình chào:
Bác...Bác ừ rồi cúi xuống gẩm bàn, lấy cái chén cáu bẩn, chai rượu trắng đã vơi
quá nửa đặt lên bàn, rót ra đầy chén: Uống đi. Gọi anh là được rồi. Lần sau đến
lại thấy..."anh" ngồi dựa tường, mắt nhìn như thôi miên tường bên
kia. Mình chào: Anh...Anh ừ rồi cúi xuống gẩm bàn, lấy cái chén cáu bẩn, chai
rượu trắng đã vơi quá nửa đặt lên bàn, rót ra đầy chén: Uống đi. Lần thứ 6, thứ
7 vẫn thấy anh ngồi dựa tường, mắt nhìn như thôi miên tường bên kia. Mình chào:
Anh. Anh ừ rồi cúi xuống gẩm bàn, lấy cái chén cáu bẩn, chai rượu trắng đã vơi
quá nửa, rót ra đầy chén: Uống đi. Nếu đến lần thứ 100 chắc vẫn y xì như vậy.
Anh Phùng Quán nói 3 chục năm thế rồi, giật mình nhìn lên bức tường in bóng
anh, quanh tường úa vàng, riêng có hình anh ngồi dựa tường trắng nhỡn.
Anh Quán chỉ
mình nói: Thằng này viết văn đấy anh. Anh hơi gật, nói: Văn chương bây giờ thêm
được một cái dấu phẩy cho thiên hạ là tốt rồi. Chẳng biết mình có thêm được dấu
phẩy không, nhưng nghe anh nói mà sợ. Anh viết văn nắn nót, nét sổ thì đậm, nét
đá thì mảnh, trăm chữ như một. Một ngày ròng rã, cật lực mới viết được một
trang. May không hỏng chữ nào, chỉ cần hỏng 1 chữ, anh chép lại cả trang, lại
một ngày trời ròng rã, cật lực. Mình nói anh viết thế này thì đến bao giờ mới
xong một cái truyện? Anh thủng thẳng nói: Viết văn chứ có phải đi ăn cướp đâu.
Một lần đến
chơi, anh khoe: Tối qua thức trắng đêm mới sửa xong bài thơ. Viết lâu rồi, bây
giờ mới sửa xong. Mình cầm bài thơ đọc, há hốc mồm: Cái đầu đề bài thơ còn dài
gấp đôi bài thơ:
Vợ chồng
Xong.
(Tức đầu đề là : Vợ chồng. Toàn bài thơ là: Xong).
***
Ấy vậy mà
vẫn chưa...xong. Thôi thì hãy quay quả với bạn ông là Hoàng Cầm vẽ chân dung
con người ông qua chữ nghĩa với những lận đận, những lao đao, những trắc ẩn
trong số phận, như những lời thơ ông viết qua một con phố nhỏ:
Tôi ở phố Sinh Từ
Hai người
Một gian nhà chật
Rất yêu nhau sao
cuộc sống không vui?
Với cái cột
mốc thời gian năm 1956, vô hình chung Hoàng Cầm...vẽ ông ra chữ. Và người góp
nhặt bên phố đông người qua nhìn bức tranh truyền thần ông ra trường phái
"Dã thú" của Matisse lúc nào cũng chẳng hay. Mà...dã thú thật cũng
nên:
"...Anh có dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc
nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch
với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười
thì trông lại như một đứa trẻ con. Tôi biết anh năm 1947, nổi tiếng là có một
anh nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ thì rất
thích nhưng một số cán bộ chính trị ở đơn vị lấy làm bực mình.
Hồi ấy anh yêu một
nữ văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để
lấy lòng của đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, gặp cô, anh "tấn
công" luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp. Rồi
anh thất vọng và cũng khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh
bạn vào xem: "Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!". Sau hình
ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, trong những trang đầy nhiệt huyết của
cuốn truyện "Người người lớp lớp".
Đọc lần đầu
tiên, tôi không thích. Tôi cho anh là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn
không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ
thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc
nhiều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy "cái anh chàng này khác
thường". Khác thường theo ý tôi chưa chắc là đã hay. Tôi thấy thơ anh có
phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi
nổi, nhiệt tình thẳng thắn, táo bạo.
Nhưng thơ anh vẫn không lọt vào tâm hồn tôi, một
người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng những cái tìm tòi
của anh trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu.
Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Đó là động lực thúc đẩy anh, và anh em văn nghệ
dự thảo ra bản đề nghị chính sách văn nghệ tại Hà Nội. Trong thời gian bản dự
thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong
đời sống của anh. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Anh
gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Anh lại là
người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Cái tật xấu nhất của
anh là bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ
đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen
lần đầu đã nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi sấn sổ
đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt xếch đã đi từ nhượng bộ này
đến nhượng bộ khác: Chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang được
phép nghỉ, anh đã đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền và đề nghị cấp trên
cho anh được cưới nhưng bị từ chối.
Anh đã gục mặt
vào tay đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo
bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực,
cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì
đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng
nói đã thấy ngấn nước mắt. Hình ảnh người con gái đi tìm việc làm trong mưa,
mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Anh không ngờ yêu lại khổ đến
thế này. Anh và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa
cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn
ghế. Ăn vội vàng, anh lại về đơn vị để rồi lại được nghe những tiếng xì xào. Và
người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tôi
mới về: "Em đi trong mưa... cúi đầu... nghiêng vai".
Cùng thời gian
ấy, anh nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo và mắc một sai lầm là thần
thánh hoá lãnh tụ. Và cuộc phê bình "Vượt Côn Đảo" cũng sôi nổi không
kém "Việt Bắc". Anh chỉ
trích "Vượt Côn Đảo" của Phùng
Quán giọng châm biếm cục cằn, lý do là nhà văn trẻ này không sáng tạo mà chỉ nghe
những người từ Côn Đảo về kể lại và viết thành truyện khiến nhiều người phản
đối. Những người chung quanh thích cách biểu lộ này của anh thì ít, mà sợ thì nhiều. Không ít người suốt
đời hậm hực về lời bình thường cộc lốc nghiệt ngã của anh. Riêng Nguyễn Khải đã
tả về hai con mắt của anh là "hiếp đáp thiên hạ". Nhưng ít ai biết
anh có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm lì
ngồi một xó, khi ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi vò đầu bứt tóc, lúc ứa nước
mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.
Bài thơ
"Nhất định thắng" anh gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên
đi. Đã gần đến Tết, một số anh em đang say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại
gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn
thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới. Đang lúc anh đi công tác xa, tôi bèn
tìm lại bài thơ cho đăng vào "Giai phẩm mùa Xuân" mà tôi là người
soạn bài. Cứ để bông hoa đó nở thì đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa
chưa kịp nở đã bị dập vùi. "Giai phẩm mùa Xuân" và bài thơ "Nhất
định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng bè phái độc quyền trong giới văn
nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù.
Anh và Tử Phác
đều bị giam ba tháng tại nhà tù Hỏa Lò, trong tù anh đã dùng dao cứa cổ tự tử.
Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng
ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về..."
***
Gần đây thêm
dăm bài báo viết về cuốn nhật ký của ông với tựa đề Ghi 1954-1960 do bà Phạm
Thị Hòai biên tập, Hòang Khởi Phong đã cay cú với bà là chẳng nên làm cái
chuyện ruồi bu ấy, trong cái lúc đất trời còn đang nhá nhem. Nhưng bà đã nói rõ
trong sách: "Với chúng ta, đó là những văn liệu và tư liệu vô giá về một
giai đoạn văn chương và lịch sử cho đến nay vẫn xếp sổ, nếu quả còn có
sổ". Qua một bài viết của ai đó, bà trả lời "Nói như thế là bạc, là
rũ trắng mọi khổ đau đen ngòm của kẻ khác".
Sau hơn 30
năm, một trong hơn 30 tác phẩm của ông được ra mắt người đọc, tập thơ-tiểu
thuyết Cổng tỉnh nhận giải thưởng hội nhà văn. Sự công nhận muộn màng này dừng
lại ở một quá khứ oan khiên với một nhà thơ lớn khi ấy gần đất xa trời. Hòang
Dung biện giải cho ông với những cảm quan mến mộ, mặc dù đây đó đang có những
hiểu nhầm đầy cảm tính với ông. Đại thể như bà Phạm Thị Hoài: "Tôi không
cho rằng ông bị hiểu nhầm, mà ông bị không hiểu. Không hiểu chứ không phải hiểu
nhầm. Hiểu nhầm, còn chữa lại được, không hiểu thì còn khó hơn nhiều".
Khi không
lay lắt với gió nồm gió hanh cùng hai người bạn đồng môn đồng tuế trên. Người
góp nhặt bên phố đông người qua với Cống tỉnh chỉ dạ quan hoài cùng những câu
thơ gió thổi muông chiều qua Phố Phái " Cô đơn lòng ngõ rỗng trăng
chênh" hoăc giả như "Sao đã
cho tôi những phố xào xạc?" hay "Sao đã ghi tôi vào mép sổ buồn
rầu?". Với mép sổ buồn rầu Ghi 1954-1960 sự nghiệp của ông không chấm dứt
năm 1958, mà là mở đầu từ đó trong khoảng 15 năm, cùng thời gian sổ bụi với
nàng Kiều của Nguyễn Du. Năm 70, ông viết Năm của Tết Mậu Thân 1968, nghĩa là
liên quan không nhỏ tới tới việc Sài Gòn thất thủ.
Tiếp, ông
đồng cảm cùng những người bên trời lận đận nơi xứ người "Họ vẫn ra đi –
Nhưng sao bước rã rời? – Họ có gì thất vọng?". Nhưng bất hạnh lớn của ông
là Nhân văn Giai phẩm, nhưng bất hạnh còn lớn hơn của ông đã quẳng gánh Nhân
văn Giai phẩm đằng sau lưng ký ức từ lâu, còn người đời thì vẫn è lưng ra gánh
mãi. Trong đó có người góp nhặt bên phố đông người qua. Nói cho ngay, người góp
nhặt bên phố đông người qua chỉ làm công việc thu vén chữ nghĩa với ông qua sổ
bụi "Em vứt đi ngọn lửa – Ta từ bỏ kiếp rơm – Để đời sau không còn là sổ
bụi". Không ngòai cái hạn hẹp muốn hòai niệm ông đồ xưa năm ấy, hồn ở đâu
bây giờ.
Bước theo
lối mòn những người viết trước và hai người bạn vừa rồi, người góp nhặt bên phố
đông người qua lại lọ mọ theo ông những bước chân trên hè phố sau ba tháng tù,
ngày về căn nhà cũ ông lặng lờ: "Vào độ cuối đông, Hà Nội thu mình khép
gió. Những tàn cây trơ trụi lá co ro trơ xương chống đỡ cơn may hiu hắt lạnh,
mênh mang nhớ, rưng rức đau nỗi niềm không tên gọi, có đây rồi lại vụt mất,
chập chờn kéo hiện tại nhập vào một tiền kiếp không thể ngày một tiêu ma dấu
vết. Tôi chống gậy, lao chao bước, đi không quay đầu lại. Tấm áo cánh trắng xóa
con ngõ cũ, chiêc mũ len sùm sụp, một mình lê về đến phố xưa, chẳng gần, chẳng
xa, để vào lòng tôi một nỗi man mác...".
Trong căn
nhà góc phố ấy, ông có nhắc đến cái cửa sổ có chấn song, trước kia ông vẫn
thường gác cái xe đạp ở cạnh bên. Ông dựa lưng vào tường, nâng cái điếu cày rít
sòng sọc, miệng chiêu ngụm nước chè, mắt nhắm, đầu khẽ ngật ra đằng sau. Và
những vật bất ly thân trong căn phòng cũng không ngòai bộ ấm tích, cái điếu cày
và một ngọn đèn Hoa Kỳ le lói chập chờn ngày cũng như đêm cùng những trống
vắng.
Chẳng phải
đợi đến Phạm Thị Hòai, năm 1958, Hội nhà văn đã mầy mò vẽ vóc dáng ông:
"...là giặc bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc địa của chủ nghĩa cá nhân
đồi trụy, chủ nghĩa...đầu hàng, làm phản". Trước đó có người hỏi ông qua
thời Nhân văn, ông tự thấy được cái gì nhiều nhất? Ông đáp: "Được cái họan
nạn". Và tiếp: "Kết quả hình phạt với một người lại có thể là một quà
tặng không ngờ tới bao nhiêu người khác..". Hoặc cay đắng: "Tôi có
thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn, trừ tiếng chửi sống không sáng tạo".
Sau khi mất, ông lại bị trì chiết với cuốn Ghi 1954-1960, như một hình phạt.
Thế nhưng có mấy ai đọc đằng sau những con chữ của bà Phạm Thị Hòai để
hiểu...ông.
Ghi trang
439, ông không chối bỏ: "Ai chẳng có những lúc nhụt chí, yếu xìu, hèn đi,
quy thuận, và thậm chí đôi khi van lơn chạy tội". Vậy mà sau năm 1961, cứ
thế ông viết. Một mình. Không độc giả. Chính cái sự rất người là yếu, hèn, để
từ họan nạn đẩy đưa ông viết về cái rất người của những con người. Ông viết, cứ
viết. Biết bao giờ in? Há chi! Không cần, viết là cái nghiệp. Nến tắt, đèn tàn,
chỉ còn lại dăm cây nhang cháy đến gốc, không còn cái mùi ngất ngây gây mê trên
bàn thờ nơi thần tượng vừa sụp đổ. Vì thế khi tới Huế, Hòang Phủ Ngọc Tường báo
Sông Hương, ỡm ờ hỏi ông về thời kỳ quy thuận, chạy tội: "Theo anh, nhân
cách nhà văn quan trọng ở chỗ nào". Ông nhếch mép trả lời: "Nhân cách
nhà văn chính là văn cách của anh ta".
Ngay như bà
Phạm Thị Hoài một lần đã thổ lộ: "Tôi được ông ưu ái khi vừa mới mon men
vào nghề, phấn khởi lắm, nhưng những lời đe của ông sau này mới thực cho tôi
những bài học càng lâu càng ngấm. Tôi thuộc lớp trẻ nợ ở ông một lòng ưu ái,
mang theo lời đúc kết của ông: Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta.
Tôi hiểu tôi phải có được một văn cách".
Trở lại với
nhóm biên tập báo Sông Hương, ông tiếp: "Thế hệ trẻ à, tôi cứ đợi mãi. Tôi
sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn thời tiền
chiến". Qua Ghi, ông dẫn giải: "Chết: có những cái chết xương tan
thịt nát. Có những cái chết sâu trong lòng. Tôi sợ cái chết ngay còn đang
sống". Để người góp nhặt bên phố đông người qua có một ý nghĩ nhập nhòa
với năm mươi năm trước, ba trăm năm sau, không một ai có đủ tâm vóc và kích
thước để chôn...sống một người như ông. Thêm ý nghĩ rời rạc: Giả dụ như lưỡi
dao không cùn, nó cắt, xọet một cái, đứt cổ để chúng ta mất đi một...anh hùng.
Thế nhưng nghĩ cho ngay không ai có quyền bắt người khác làm anh hùng...thay
mình với cái chết. Vì cái chết cao đẹp đến đâu chăng nữa, không thể đổi lấy sự
sống. Nhất là lại sống để nhả tơ nuôi đời...như ông.
Ừ thì cứ tạm
bám víu vào phương thức ghi chép sử của sử học, với những sự kiện cùng thăng
trầm của một thời đại, phải đợi 60 năm sau mới nên mang vào sử sách. Với một
kiếp nhân sinh qua văn học sử cũng vậy, đâu đó có một câu chữ Hán, nôm na là
hãy đợi đóng nắp quan tài lại, đợi hương tàn khói lạnh hãy râm ran. Thế nhưng
người góp nhặt bên phố đông người qua lại lú lẫn, phải nhờ vả đến bạn bè tứ
phương tám hướng, gọi như gọi đò sang sông. Qua vắng gió đìu hiu, ông bạn già
thì thào cho hay câu ấy là: Cái quan định luận...
***
Qua đường, không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Nghĩ quẩn
với một ngàn năm trước và thêm một trăm năm sau nữa...Mây vẫn bay qua, ngày vẫn
trôi đi, học theo bà nhà văn đang luân lạc trên, nghĩ cho cùng ai là người dầy
chữ để làm cái chuyện cái quan định luận đây. Đã bao nhiêu mùa gió thổi, cho
đến một đêm mưa, mặc kệ cho gió mưa choàng lên kinh kỳ ...Kẻ hậu sinh chẳng dám
học đòi người muôn năm cũ Tùng niên Phạm Đình Hổ với Vũ trung tùy bút qua những
tang thương ngẫu lục. Trong đêm mưa giữa lòng phố thị gió táp mưa sa, người góp
nhặt bên phố đông người qua xin thành kính thắp nén hương lòng đến Sổ bụi,
người muôn năm cũ qua những năm tháng: 1926-1997.
PNH
Thạch trúc gia
trang
Lập xuân, Tân Mão
2011
Ngộ Không Phí Ngọc
Hùng
Nguồn: Lê Thiếu
Nhơn, Tường Hương,
Nguyễn Hải Chí tự
Chóe.
Tất cả tranh tự
phác họa được góp nhặt từ
tuyển tập
"Thơ" ông vẽ vào thập niên 60.
No comments:
Post a Comment