Lá thư mùa
xuân
1.
...
Năm ni ăn tết nơi mô.
Lạ, mỗi lần Tết đến, câu hỏi ấy cứ nhằm tôi mà vang lên, từ Huế cho đến Muenchen, người bên nớ hỏi, người bên ni cũng hỏi. Có lúc người hỏi bâng quơ vì không có chi để hỏi khi gặp mình. Nhưng cứ mỗi lần như thế tôi lại thấy mình khắc khoải giữa từng không. Câu chuyện đi- về đã tưởng như thường, mà lại chẳng thường, cũng chỉ vì cái thời khắc gọi là „Tết ấy.
Lạ, mỗi lần Tết đến, câu hỏi ấy cứ nhằm tôi mà vang lên, từ Huế cho đến Muenchen, người bên nớ hỏi, người bên ni cũng hỏi. Có lúc người hỏi bâng quơ vì không có chi để hỏi khi gặp mình. Nhưng cứ mỗi lần như thế tôi lại thấy mình khắc khoải giữa từng không. Câu chuyện đi- về đã tưởng như thường, mà lại chẳng thường, cũng chỉ vì cái thời khắc gọi là „Tết ấy.
Năm tháng tôi đi tôi về, mặc tôi, nhiều khi
như cái bóng thoắt đi chợt đến, có nghiêng ngữa chòng chành thế giới chi mô.
Ấy
vậy mà khi ngày tháng nghiêng dần, bồng binh thời gian đầy ắp tròn một năm,
nghe đếm tháng mười, mười một, tháng chạp… bỗng nghe câu hỏi gấp như dồn chân.
Mà đã tưởng câu hỏi quen thuộc là thế, lặp lại mỗi năm, thì câu trả lời phải
thông thạo, trơn tru.
Nghe
dễ mà không dễ, thường khi tôi ấm ớ bối rối không tìm ra câu, mà có, thì ngúc
ngắc không ra kéo, rằng “chắc là ăn tết bên nớ“
rồi ngần ngừ: “Chưa biết nơi! Có lẽ sẽ về ăn Tết bên ni“. Nhiều ánh mắt
đã nhìn tôi ái ngại, cái tôi đứng đó cũng chao đảo bấp bênh. Cái tâm trạng
không đóng đinh chiếc áo trên tường, vì người mang áo sẽ đi, sẽ về, nhấp nhô
cơn sóng trùng khơi.
Vừa
nghe chính mình nói “bên nớ“ ngọn gió vô danh đã gợn trong lòng, vẽ ra căn nhà
ấm cúng, đã trở nên mái nhà thân thương ấy, đẹp lắm những giờ phút bên nhau nơi
trời Tây xa xôi, nhưng hình như Tết là cái chi khác hơn. Hình như nó dính líu
đến không gian, đến thiên nhiên cây cỏ, đến bầu trời, đến nắng, đến gió, mà con
người không thể làm nên, cái khung hiện sinh ấy khi được chào đời, đã có sẵn,
đã truyền đời… Cho nên đã mấy mươi năm ăn Tết ở Muenchen, thật ra không phải „
“ăn“ mà hóa ra “nhớ“ Nhưng về Huế, ăn
Tết thì quả có ăn Tết thiệt, ấy thế mà lại thiếu chút chi cái “nhớ Tết Huế ở
nơi Muenchen“, tuồng như cái nhớ đã mắc vào người, khó gỡ…Rứa là Huế-München cứ
như tơ vò
Nhìn
như thế thì có phải tôi là người khổ nhất trên đời? Tôi không muốn than van.
Con tôi sinh ở Muenchen, lúc bảy tuổi khi ngồi với tôi trên chiếc xích lô đạp
từ Bạch Đằng lên Linh Mụ rồi đạp về, hai chiều đều dọc theo bờ sông Hương, bỗng
nói với giọng con nít mà làm người lớn sững sờ: “làm răng mà sông Hương chảy
qua thành phố Muenchen bên mình mạ hè“!!?
Hình
như nó nghe rõ tiếng đập của tim tôi, nó nói rõ ý nghĩ của tôi. Lắm lúc tôi
biết mình trở về Huế với rất nhiều lý do rõ rệt, như đi kiện mà nhiều người bảo
“kiện củ khoai“ nhưng vẫn không mệt mỏi, chuyện ma chay cho người thân, chuyện
chùa chiền, chuyện dạy học, lý do cụ thể lắm. Nhưng thiệt tình, khi lắng lòng
mà hỏi, thì nguyên nhân của lần khân, không phải do những chuyện ấy, mà hình
như …siêu hình…khó thấy. Chỉ biết đôi khi tưởng Muenchen thắng thế rồi, mà hoá
ra thua,… thua cái bóng đang hối hả chạy ra phi trường… Không phải cái thời “nửa
chuyến về Tết“ ngày xưa ấy, mà ngay cả hôm nay…
Thì
mới đó, mấy ngày trước tôi nhất quyết năm ni sẽ ăn Tết ở Muenchen, bộ tịch của
tôi chắc mẩm, tỉnh bơ, lạnh lùng, khi rời Huế. Ấy thế mà vừa bước xuống phi
trường Nội bài (Hà nội) để bay tiếp, tôi nghe mình nói trong điện thoại: “có lẽ…
Tết…sẽ về…“
Trong đáy sâu của tiềm thức chữ “sẽ“ ấy là
“phải“ ;“sẽ“ chỉ là lớp băng mỏng phủ trên mặt nước bên dưới còn xao những thôi
thúc vô hình hầu như là tiền định
“Phải”
như một tương phản với mọi tự do chọn lựa đi về của tôi, như một thứ cuốn hút
của từ trường trong lòng đất khiến mọi thứ rơi trở về với đất.
“Tết”
là một tiếng vọng từ trong lòng đất sinh thành thoát ra, chập chờn như một nhắc
nhở quay về của người xa quê. Có lẽ tính vô thường của thời gian, sự đổi thay
cũ mới, sự hóa nhập từ đông sang xuân sẽ dễ dàng được chịu đựng, được cảm nhận
vẹn toàn, được cảm khái hoan hỉ khi chúng xảy ra chính trong không gian sống
của con người”, như tôi đã viết một lần. Không gian ấy, lòng đất ấy, giọt nắng
trên thềm lấp lánh một sớm mai, gió quái một buổi chiều, dòng sông và bóng núi,
vẫn còn đây, trong dòng vô thường, trong trăm năm giấc mộng mở mắt của đời
người. Tiếng vọng ấy uyên nguyên như tiếng trẻ khóc từ nơi sinh thành, nơi giấc
mộng bắt đầu, và cũng chính là thời điểm quay về. Tiếng vọng ấy cũ như trái đất
và mới tinh khôi như ngày mồng một Tết. Nếu trăm năm trên cõi đời ngưòi có hai
thời điểm quan trọng nhất là sinh và tử, thì ngày ba mươi Tết của năm cũ và
mồng một Tết của năm mới là điểm nối tâm linh giữa người sống với người đã
khuất, giữa con người với tổ tiên, với xã hội, với vũ trụ nhân sinh. Giây phút
thiêng liêng tống cựu nghinh tân nồng ấm khí xuân là khởi đầu của hi vọng, của
niềm tin dù biết rằng biến đổi là luật vô thường. Cho nên “phải” như kiện tính
của tự do trở nên một thứ tự do “Tự do
chính là sự trở về với một chút bền bỉ hơn tự do, hơn phù du: đó chính là “hồn
quê”. Nguyễn Du là tri kỷ của hồn quê ấy
“Trần
thế bách niên khai nhãn mộng
Hồng
Sơn thiên lý ỷ lan tâm”
(Trăm năm trên trần thế là giấc mộng mở mắt
Núi Hồng nghìn dặm tựa lan can ngóng về)
Khi
nắng chiếu bên thềm dù ta là cái bóng trên trần thế mộng mị phù du, nỗi thương
tâm vẫn là rặng núi Hồng Lĩnh chốn quê nhà.
Tết
là một thứ cũ kỹ của quê nhà, thứ cũ ấy ai ngờ nó ấp ủ cả hồn quê…mất nó ta mất
nhiều hơn ta được muôn ngàn thứ khác.
Thái Kim Lan
Tháng
chạp năm Quý Tỵ 2014
2.
Exkurs (Viết bên dòng)
Bạn
tôi hỏi tôi ăn Tết như thế nào ở Huế, tôi viết:
20
Tết tụi em đi mua hoa, nhưng không đi những chợ hoa thành phố mà về vùng quê,
vì em muốn mua hoa giấy ở các làng làm hoa giấy.
Muốn
qua làng hoa giấy phải đi đò ngang từ bến Bao Vinh qua sông ở ngã Ba Sình. Đò
cập bến đến Tiên Nộn. Ở Tiên Nộn có cái chợ nhỏ sát ngay bến đò. Cái chợ nhỏ
xíu bằng bàn tay, tụi em vô chợ đi mua tôm cá, đều là tôm cá họ đánh từ sông
lên, trả giá um sùm làm huyên náo cả chợ. Sau đó đi bộ 2 cây số đến làng Thanh
Tiên, mua hoa giấy đem về chưng Tết. Hoa giấy Thanh Tiên do các nhà nông dân
làm từ xưa để cúng ông Táo và các trang thờ, cũng như cúng đêm ba mươi.
Những
làng ở đây nằm bên ven sông, đất phù sa bồi lên thành những dãy ruông gọi là
biền, người dân dùng đất ấy để trồng hoa màu, quanh năm rau cải phơi phới xanh
màu thiên nhiên. Đến mùa Tết thì họ trồng hoa để đem bán các chợ trên phố.
Thường khi hết mùa gặt là lúc Tết sắp đến, họ không làm ngoài đồng thì ở nhà
làm hoa giấy. Màu sắc của hoa giấy họ lấy từ cảm hứng sắc màu của những loài
hoa mọc quanh vùng, các loài hoa vừa "dại" (hoa mọc hoang ở ven sông
người Huế gọi là dại) vừa "khôn" (hoa được người ta trồng, chăm bón),
Hàng ngày hàng giờ sắc màu ấy thâm nhập
vào tâm, in vào trí đến nằm mơ cũng thấy, rồi cảm hứng chuyền đến đôi tay, và
cứ thế họ nhuộm màu giấy, cắt, dán, ghép thành các loài hoa cúc, hoa hồng, hoa
mai, theo giấc mơ tâm tưởng mà cách điệu, thật là rực rõ như những lời reo vui cất
lên trong không gian đồng nội. Khi làm xong các nhánh hoa, họ cắm vào một cái
cùi rồi mang cùi trên xe đạp đem lên chợ bán.
Mấy
năm trước em đã mua hoa giấy về chưng Tết đầy nhà, thay vì hoa mai, hoa đào, ai
cũng lấy làm lạ, tưởng em khùng đi chưng hoa giấy không giống ai. Nhưng đối với
cái nhìn của người ở xa về thì đây thật là một công trình mỹ thuật. Lần ni em
mua luôn cả cái cùi hoa gồm hơn trăm cành hoa. Cả gia đình làm hoa giấy đều
vui. Nhưng họ cũng khôn lắm, đòi giá mắc thật là mắc vì họ biết em ở từ xa đến.
Người mình nhiều khi có tính hay bắt chẹt, buôn bán ở đây khó lắm, trả giá hoài
rốt cuộc mình cũng vẫn mua đắc hơn ai hết. Hí hửng đem về khoe, ngờ mô ai cũng
kêu là đồ ngu, ở ngoài tê họ bán có 5 ngàn một nhánh mà mi mua 7 ngàn...Nhưng
lỗ mà lời vì cuộc du xuân thật là ngoạn mục.
Phong
cảnh miền quê yên bình, các con đường vào thôn xóm cũng xinh xắn, gió sông hiền
hoà, nắng xuân chuyền hơi ấm dịu dàng, đi trên những con đường ấy mình cứ nhẹ
nhàng như chân không chấm đất. Thấy lòng vui sướng hơn bao giờ.
Trên
đường làng, buổi xế chiều các em nhỏ đạp xe đi học về, cười nói hồn nhiên, em
chạy theo chụp chung với chúng. Trong giây lát, tưởng chừng như cuộc đời có
chút chi thật là hạnh phúc...
Sáng
ni (mùng hai Tết) mấy chị em đi chùa Bảo Lâm, chùa nằm khuất trong núi nên vẫn
còn giữ được nét thiên nhiên, đang xuân nên đào mai đều nở rộ, hoa giấy đủ màu,
sứ cũng đã ra hoa, bằng lăng tím ngát và nhiều loài hoa khác trong vườn chùa
đua nhau khoe sắc. Trước sân có hoa đào nở rực đón xuân, khách vãn chùa mùa
xuân, ai muốn chụp hình kỷ niệm ngày Tết
đều đến đứng bên đào đang cười trong nắng. Nhưng bỗng trong góc vườn chợt thấy
một cây bàng còn trẻ, gốc mảnh mai như đào như mận, mà lá thì vàng óng ánh, như
tuồng cũng muốn khoe màu trong thân phận của mình. Cây bàng thường đỏ lá mùa
đông, sang xuân bàng rụng lá để chớm nụ xanh. Không hiểu sao xuân rồi mà bàng
vẫn còn giữ lá đỏ tươi trên cành, dù gió thời gian đã nhiều lần khoét lỗ. Có lẽ
nó thấy sắc màu mùa xuân nên cũng muốn rực rỡ như ai. Xem ra nó trẻ người non
dạ, bất chấp thời gian, thấy cây đào, cây mai đỏ vàng rực rỡ, nên nó cũng muốn
bừng vui, cưỡng đoạt thời gian chơi. Dù biết gió xuân rất vô tình, có thể rụng
lá vàng như một thuở vàng bay mấy lá...
Nó
nếm chút vô tình ấy và...bật cười, rơi nhé, nhưng mình rơi như những bông hoa
rụng về trời, như đổ...(tấm lòng) vàng ở sông...Tương, có được không? Màu đỏ
của lá bàng có chút chi siêu nghệ thuật trong ánh sáng ảo hoá của mùa xuân. Ai
đi chụp hình với đào, còn mình đứng dưới bàng mà vui...ngọn gió đông
xuân...thổi bay tóc áo. Gửi theo hồng rơi, vàng bay.
Thái Kim Lan
No comments:
Post a Comment