Tin xuân
Nơi
thung lũng xanh, có dòng suối mát mỗi ngày từ núi đổ về…ở đó, trong yên lặng
tôi muốn tìm em…(F. Hoelderlin, Nói với hi vọng)
Đã từ lâu tôi định viết về bông hoa ấy, một
bông hoa thật nhỏ, thật bé, hầu như là không tên, thảng hoặc nó có được gọi,
thì mơ hồ, như bâng quơ, tạm thời để có thể có mặt trên trái đất. Mà có tên, có
gọi, thì là chuyện của ai, không phải của hoa, như ai đó, hình như nhà thơ bên
Tây, ông Brecht, nói rằng, trước khi con người gọi hoa là hồng thì hoa hồng đã
nở trong rừng, thơm trong rừng, nào phải vì ai.
Thì thế, cây hoa bé nhỏ ấy đã ở ttrong vườn
từ độ…
Ừ thì nó mọc trên đất, thường dọc theo ngõ
vào nhà của khu vườn Huế thời xưa, ẩn nhẫn, khiêm tốn đến mực, dưới hai hàng
chè tàu dẫn sâu vào đến tận bình phong của căn nhà cổ có nhiều bóng tối, đến
bình phong nó cũng rẽ hai bên, viền cho trọn lối…thỉnh thoảng mọc nhầm, nó
quanh cây hải đường hay quanh cây mai cổ thụ, chen với lá khô.
Hình như nó
cùng tuổi với khu vườn này, nếu thế thì nó hơn tôi đấy, nó thuộc vào quá khứ, -
như căn nhà, nơi bà tôi đã sống,- nó thuộc vào thời xưa ấy, dù có thể nó đang
nở đâu đó đúng vào lúc tôi đang viết
những dòng này.
Chữ xưa thường gợi thăm thẳm, bề sâu, dính
líu đến lịch sử, đến chiều kích thời gian.Với tôi, khi nhắm mắt lại thì xưa là
con đường thuở bé tôi đi từ ngõ, vào sâu, từng bước, qua cây ngâu, cây tràng
bì, cây hồng quân, rồi cây vải cổ thụ hai người ôm không hết, đến cây hải
đường, ngõ sâu hun hút, đi hoài trên con đường đất cho đến nhà bà, cảm giác dấn
sâu vào diệu vợi thời gian, nẻo sương mù của ký ức.
Ấy thế mà nhiều năm nhiều tháng, bao lần đi
- về, cánh hoa nhỏ hầu như bị bước chân bỏ qua không màng đến, nếu…mưa tháng
tám không về…
Người Huế sẽ cười tôi khi nghe tôi nói
“nếu…mưa không về…” mấy o Huế sẽ háy, sẽ nguýt, hờn mát tôi, mà ngay cả đứa
cháu yêu Huế nhưng đang ớn mưa Huế tận cổ, cũng kêu rêu, sao tôi mơ mộng mô mô,
mưa đang không dứt nơi trời Huế tháng chín, tháng mười, chừ là tháng mười một
âm lịch, mà tôi bảo “nếu”…Ờ, “nếu như trời không mưa, đường vắng không cần tôi
đưa…” bài ca cũng “nếu…” mà thành ra duyên nợ sơn khê…một chuyện tình ấm áp
trong mưa…
Vâng, mưa tháng tám phải về - riêng phần câu
chuyện của tôi, không những mưa, mà còn lụt nữa. Thường khi đến ngày giỗ của
cha tôi vào thượng tuần tháng tám âm lịch, nước lao xao chực nhảy lên bờ, có
khi trước ngày giỗ chỉ một hôm, làm rúng động tâm hồn,cả nhà dáo dác. Bà tôi gọi dè chừng là lụt nhỏ, nước sông dâng đầy từ những cơn mưa đầu
mùa, bỗng phình lên ào ạt, chưa kịp trọn cơn mừng thoát nóng đã co giò sợ nước
lụt..
Thượng
tuần tháng bảy mưa Ngâu. Ấy là khúc dạo đầu bản trường ca mưa mà những người
Huế như bà tôi, mẹ tôi đã ru con, đã ru tôi từ khi còn nằm nôi. Cơn ru mưa
thường ướt đẩm mừng vui buồn bã. Mừng khi cơn mưa đầu mùa trở lại và muộn phiền
theo với ngày mưa, tháng mưa thiu người.
“Mừng
vui buồn bã, khi con tim, bừng yêu, quá đẹp để trầm thân, buông mình vào thuỷ
triều của thời gian” Hoelderlin đã viết về dòng sông Heidelberg và dòng thời
gian, về sự trầm mình trong dòng vô hạn và cái chết như giới hạn miên viễn của
đời người. Trong dòng chảy ấy, vui buồn, sống chết kề nhau, như tiếng cười hoà
với tiếng mưa. Hầu như đó là thẩm mỹ của thuỷ triều thời gian, của trầm luân
sóng nước, vẻ đẹp của thú đau thương! Nhà thơ thế kỷ trước như đang viết về
sông Hương nơi khúc quành Linh Mụ ấy chứ!
Hình
như bây giờ tôi mới thấu hiểu được câu thơ ấy, nỗi buồn bã của tiếng cười vỡ
thời gian, sông nước đầy vơi xao động đời người. Và rõ hơn bao giờ tiếng cười
Bùi Giáng “vui quá cười to nên không lạnh” trong lúc “trời đương mưa liền lụt”…
Những
cơn lụt nhỏ mấp mé nhắp vuờn cây, nhận chìm vạn vật đắm đuối trong mưa, đàng
sau màn mưa bóng dáng của bà gầy nơi khung cửa bàng khoa. Tôi biết nỗi lo âu
“buồn vui” của bà tôi không nên lời, không tài tình chữ nghĩa như những tiếng
thơ ấy. Đó là nỗi lo âu câm nín của đợi chờ, đợi mưa về, rồi đợi trời hết mưa,
đợi nước ngừng dâng lên, đợi nắng về và đợi người…có thể không phải người đang
sống, mà người đã khuất…Nỗi mong ngày về của người con trai nhân hậu, khôi ngô,
hiếu để nhất, đã bị tước đoạt đời sống một buổi chiều mưa vừa tạnh…Lòng mẹ trào
dâng thuỷ triều thương nhớ.
Thường
khi tôi theo mẹ lên nhà thờ tổ tiên cúng giỗ cha tôi, dáng của bà nơi khung cửa
vẫn y nguyên như chưa có lần rời. Ngày giỗ cha tôi thường kỵ lớn, vì tất cả bà
con xa gần đều thương quý người. Sau ngày mồng một ăn chay, mọi người đã
bắt đầu làm mứt bánh, tỉa hoa, cắt gọt, mỗi người một cách, mà bà tôi là biểu
tượng của nếp nhà xưa ấy. Bên cạnh trải lòng với người thân, với người đã
khuất, là đức hạnh chăm chút nét đẹp, sáng tạo trên từng miếng cắt, miếng gọt.
Như là cái đạo đối đãi với nhau, người với người, người đang sống với người đã
khuất, cả với trời đất và thần linh. Rốt cùng thẩm mỹ là tình yêu, trang trọng
cái ngắn ngủi đời người.
Những
ngày tháng tám ấy thường mưa, xanh xao cây cỏ. Nước sông ngấm nghé tràn bờ,
những ngày không thiếu tiếng thở dài bên tiếng cười ấm cúng với nhau, có giọt
nước mắt lăn theo với giọt mưa, nhưng cũng có nụ cười dấu sau tay áo.
Cử
hạ tuần tháng bảy, thượng tuần tháng tám, mưa dạo ấy lê thê. It nhất đã có ba
lần nước nhảy lên bờ rồi đấy. Nhưng may nước chưa vào nhà. Nỗi thấp thỏm bấp
bênh và nỗi mừng vui thoát nạn đều hiện rõ trên gương mặt thanh cao ấy. Khu
vườn xanh của bà dính bết bùn non, cỏ cây tơi tả, bà thầm lặng chờ mong…
Khi
tôi bước lên tâng cấp vào vườn, một ngày tháng tám, tuổi đời vừa đủ để lắng
nghe mưa nhỏ vào hồn, cứ thế mỗi lần một thêm. Cảm giác hoang sơ buồn bã những
ngày mưa lụt vẫn như in, không có cây nào đón chào tôi, cả cây hải đường mạnh
mẽ trang đài cũng cúi đầu xếp lá. Cô đơn như cơn gió thốc vào trái tim còn chưa
biết lạnh. Ngoái nhìn ra con sông còn đục màu bùn và rặng núi xanh mịt mù, cảm
giác bồng bềnh giữa trời và đất “thiên địa biên chu phù tự diệp”, những ngọn lá
hồng run thân phận truớc gió, thật khó thoát. Thương bà vô hạn trong nhỏ bé vô
cùng…nơi khung cửa ấy.
Đường
vào vườn bùn trơn, chân đi phải bấm vào đất, guốc mộc cầm tay, bùn non vấy chân
dẻo kẹo, đang rình cho tôi đo ván. Chính trong lúc chằm hăm dọ dẫm từng bước
trên lối đi trơn trợt, tôi chợt nhìn thấy cánh hoa nhỏ ấy. Trong cảnh sắc u tối
của bầu trời sau cơn lụt, vạn vật còn run rẩy trong lụi tàn, trong ưu phiền giá
rét, bỗng loé sáng ánh hồng giữa đám lá xanh bê bết bùn non. Màu hoa tươi
sáng lạ thường với bốn cánh màu hồng như cánh sen, chỗi cao lên trên những chùm
lá xanh đang quằn quại trong vũng bùn. Nó không như sen, hào hùng và diễm lệ,
tự xưng giữa trời và đất không tanh mùi bùn, rộng lượng ban hương thơm cho thế
gian ô trọc. Nó nhỏ bé và cơ hồ mong manh nơi cánh hoa, thơ dại ngơ ngác, nhưng
cuống hoa thì măng trẻ đầy sức sống, dài non nửa chiếc đủa, trắng muốt như ngọc
nơi cần cổ và xanh màu ngọc thạch nơi gốc lá.
Tưởng
manh mai như thế thì phải gục đầu, như những đoá phù dung kiêu sa đang bơ sờ
trong gió, như những cánh hồng đang rụng đầy sân, như cúc vàng đầy lệ ứa.Không,
nó chỗi dậy giữa những cơn mưa thu, ngẩng cái đầu bé xinh vói nhìn trời, sáng
chói trên màu đất nâu đen, tươi sáng, diễm lệ trong cùng một nhịp. Giữa đất
trời u minh màu hoa thanh như tiếng của chiếc khánh ngọc vừa rơi trên nước. Màu
hồng tươi không loè loẹt mà ẩn nhẫn, long lanh ngời sáng giọt nước mưa còn đọng
trên má hoa, như tiếng thơ phiêu lãng giữa những cơn địa chấn đời người. Nó nhỏ
quá để được ca ngợi, để được chú ý tung hô hồ hỡi, nhưng nó đủ sức gây chấn
động tâm hồn, nó thay đổi và nuôi dưỡng cái nhìn của tôi trên đường rong ruỗi
trần gian.
Cuộc
gặp gỡ chỉ trong giây phút, nhưng mãi hoài không quên ấy đã chiếu sáng một góc
hồn của đời người, cho tôi nếm rõ vị vui giữa buồn bã thời gian, cho tôi thương
hơn không gian não nề ấy, cho tôi thương Bà đứng sau khung cửa.. Phút giây tao
ngộ ấy đã dẫn tôi đến chân trời của “buồn vui”, như một tia hi vọng trong nhiều
tuyệt vọng quanh tôi, nó bật lên tiếng thơ, hay nó chính là bài thơ đang hoà
điệu nhỏ giọt với mưa.
Tôi
đã hỏi Bà ngay sau khi nhìn thấy loài hoa ấy, tên gì, mà đã làm cho tôi có được
tin yêu trên đời, thấy được hơi xuân trong buồn thu, linh cảm điều nên thơ còn
mãi trong thăng trầm. Bà tôi nói giản đơn, hoa ni ưa mưa, nhất là mưa nguồn, hể
có mưa mới ra hoa. Tuồng như cả muà hè, nó ôm nắng trong lòng, chờ mưa…mơ hồ
như bị bỏ quên. Bà tôi đã gọi nó bằng một tên
rất đẹp khác với tên thường…
Nhưng
tôi sẽ không viết tên hoa ấy ra đây… như một kỷ niệm không tên, chỉ biết rằng
mỗi khi nhớ đến, nó rực sáng trong ký ức mù khơi, nó nâng nhịp tim lên trên
ngọn thủy triều, nó lung linh đến phải mỉm cười…nhớ thương…
Vả
chăng hình như ngoài trời, ngàn hoa đang sửa soạn trẩy hội với những tấm áo
muôn màu, khoe sắc lộng lẫy huy hoàng đón xuân, chúc Tết kia mà…tôi có nói cũng
bằng thừa…
Huế
đông chí 2013
Thái Kim Lan
Thái Kim Lan
No comments:
Post a Comment